Tác giả: admin

  • Làm giúp việc cưới luôn được ông chủ U50, tưởng cuộc sống màu hồng ai ngờ đâu

    Tuần vừa rồi, con trai riêng của chồng về chơi. Trong lúc, 2 bố con ngồi nói chuyện, tôi ở dưới bếp, vô tình nghe được 1 đoạn hội thoại.

    Tôi từng có 1 gia đình hạnh phúc, chồng giỏi kiếm tiền và 2 con ngoan ngoãn. Công việc tôi làm xa lại vất vả nên sau khi sinh con đầu lòng, chồng muốn tôi ở nhà để chăm sóc gia đình cho anh đi làm.

    Vậy là suốt 10 năm, tôi ở nhà chăm lo cho chồng con. Sợ vợ ở nhà chịu nhiều thiệt thòi nên tháng nào chồng cũng gửi gần như hết tiền kiếm được cho tôi. Đến khi anh cần dùng lại phải xin tiền vợ. Được chồng coi trọng nên tôi luôn dành hết tâm huyết cho gia đình.

    Giữa lúc tình cảm vợ chồng đang nồng thắm thì gia đình tôi xảy ra chuyện đau buồn. Trong 1 lần đi ăn cỗ đám cưới, chồng tôi bị tai nạn xe máy và rất nặng. Để cứu chồng, tôi đã dốc toàn bộ tiền tiết kiệm và vay của anh em bạn bè. Thế nhưng sức khỏe của anh không khỏi mà yếu đi từng ngày.

    Sau vụ tai nạn, anh sống với mẹ con tôi nửa năm thì mất. Anh ra đi để lại cho tôi khoản nợ 500 triệu. Để có tiền trả nợ, sau ngày chồng mất, tôi lao ra ngoài kiếm tiền và làm đủ mọi công việc.

    Làm việc vất vả là thế nhưng tiền tôi kiếm được chỉ đủ để nuôi 2 con ăn học. Hầu như tuần nào cũng có người đến đòi nợ. Lúc người ta cho vay thì là 1 cục, còn tôi trả cho họ vài trăm nghìn mỗi lần. Nhiều khi không có tiền phải nói dối chủ nợ. Dường như vì đồng tiền làm đạo đức tôi càng tha hóa. Xấu mặt lắm nhưng cảnh nghèo túng khiến tôi không còn sự lựa chọn khác, chỉ mong chủ nợ thông cảm cho tôi.

    Hạnh phúc khi chồng U50 đưa 20 triệu/tháng để chi tiêu sinh hoạt, tôi ngã quỵ khi biết sự thật - 1

    Giữa lúc tình cảm vợ chồng đang nồng thắm thì gia đình tôi xảy ra chuyện đau buồn. (Ảnh minh họa)

    1 năm nay, sức khỏe của tôi yếu, không thể đi làm công nhân được nữa, vì vậy tôi chuyển qua làm giúp việc cho 1 người đàn ông. Các con của ông ấy thành đạt nhưng làm việc xa nhà, ông không thích đi theo con nào, chỉ muốn sống ở quê cho thoải mái và tự do.

    Sách về U50

     

    Làm ở đó được vài tháng thì tôi được ông chủ tỏ tình. Lúc đầu tôi từ chối nhưng khi ông ấy nói sẽ đưa toàn bộ tiền lương cho tôi giữ. Sau khi cân nhắc thiệt hơn, tôi quyết định làm vợ của ông chủ, dù khi đó anh đã ở tuổi U50, còn tôi vẫn phơi phới tuổi xuân.

    Sau khi cưới, chồng đồng ý cho tôi đưa 2 đứa con về sống chung. Suốt 7 tháng nay, gia đình tôi sống rất hạnh phúc. Hằng ngày chồng đi làm, cuối tháng chuyển cho tôi 20 triệu. Mỗi tháng tôi chi tiêu hết 10 triệu tiền ăn, số tiền còn dư tôi tiết kiệm để trả nợ và chồng cũng đồng ý với tính toán của tôi.

    Tuần vừa rồi, con trai riêng của chồng về chơi. Trong lúc, 2 bố con ngồi nói chuyện, tôi ở dưới bếp, vô tình nghe được 1 đoạn hội thoại. Người con trai trách chồng tôi quá hào phóng, tháng nào cũng chuyển hết tiền lương cho vợ, như thế không được ổn lắm.

    Hạnh phúc khi chồng U50 đưa 20 triệu/tháng để chi tiêu sinh hoạt, tôi ngã quỵ khi biết sự thật - 2

    Lúc đầu tôi từ chối nhưng khi ông ấy nói sẽ đưa toàn bộ tiền lương cho tôi giữ. (Ảnh minh họa)

    Khi đó, chồng tôi thở dài rồi nói với con trai:

    “Trước khi bố cưới vợ phát hiện trong phổi có 1 chấm đen, bác sĩ nghi bị ung thư và khuyên bố nên chữa trị sớm. Lo sợ những ngày tháng bệnh tật không có người thân bên cạnh chăm sóc nên bố quyết định lấy người giúp việc.

    Khối u trong phổi bố đang lớn dần, tiền bố kiếm được coi như trả công cho mẹ kế con ở bên chăm sóc. Vì thế các con đừng gây khó dễ cho mẹ kế. Bà ấy mà giận dỗi bỏ đi thì những tháng tới sức khỏe bố yếu lại khổ các con thôi”.

    Từng lời nói của chồng khiến tôi choáng váng, trong người có bệnh mà anh lại vẫn muốn lấy tôi làm vợ.

    Sau khi chồng đầu mất, tôi bị nhiều người nói những lời không hay như có tướng khắc phu, sát chồng. Bây giờ tôi lấy chồng thứ 2, bị bệnh nan y, thế này sống chẳng được lâu nữa. Anh mà chết đi, tôi lại bị mang tiếng sát chồng lần 2 ư? Anh quá ích kỷ, chỉ biết nghĩ cho bản thân mà không nghĩ cho cảm giác của tôi thế nào?

  • Thợ xây bỏ 300 triệu cưới cô gái bị l/i/ệ/t làm vợ, đêm tân hôn vừa c/ở/i á/o của vợ ra, anh biết mình trúng số

    Thợ xây bỏ 300 triệu cưới cô gái bị l/i/ệ/t làm vợ, đêm tân hôn vừa c/ở/i á/o của vợ ra, anh biết mình trúng số đ;ộc đ;ắc..Nguyễn Hưng – một người đàn ông 35 tuổi, làm nghề thợ xây tại một thị trấn nhỏ ở miền Trung. Anh sống độc thân, chăm chỉ làm việc, không có nhiều bạn bè, càng không đặt nặng chuyện yêu đương sau một lần bị phản bội khi còn trẻ. Sau bao năm dành dụm, Hưng tích lũy được hơn 300 triệu đồng – số tiền mà người dân quê anh vẫn xem là “của để dành”, có thể dựng nhà nhỏ hoặc khởi đầu cuộc sống ổn định hơn.
    Một hôm, khi đang ăn cơm trưa ở công trình, Hưng đọc được một bài đăng trên mạng xã hội từ một nhóm thiện nguyện. Câu chuyện là về một cô gái tên Lê Vy, 28 tuổi, từng là sinh viên năm cuối ngành sư phạm thì gặp t;ai n;ạn xe máy khiến cô bị liệt nửa người từ thắt lưng trở xuống. Gia đình không khá giả, mẹ già đau yếu, ba đã mất, Vy gần như sống tách biệt với xã hội trong một căn nhà nhỏ ở vùng quê nghèo tỉnh Quảng Trị.
    Bài đăng kêu gọi mọi người giúp đỡ, nhưng điều làm Hưng chấn động là đoạn cuối: “Cô ấy từng nói, ước mơ lớn nhất là được khoác váy cưới, có một mái ấm dù chỉ một lần trong đời.”
    Không hiểu vì sao, Hưng thấy tim mình rung lên. Không phải thương hại, không phải nhất thời cảm động – mà là một cảm giác rất thật: anh muốn gặp người con gái đó. Không bàn bạc với ai, không suy tính nhiều, Hưng xin nghỉ vài ngày và bắt xe về Quảng Trị.
    Lần đầu gặp Vy, Hưng ngỡ ngàng. Cô gái ngồi trên xe lăn với đôi chân gầy guộc và ánh mắt buồn vời vợi ấy lại sở hữu một vẻ đẹp thuần khiết đến lạ. Gương mặt không cần son phấn, nụ cười nhẹ dù đầy sự tự ti, nhưng vẫn tỏa ra một nét gì đó khiến người ta muốn lại gần.
    Ba ngày ở lại thăm hỏi, trò chuyện, Hưng thấy trong Vy là cả một bầu trời nghị lực. Dù cơ thể không còn nguyên vẹn, cô vẫn giữ thói quen đọc sách, học ngoại ngữ qua điện thoại, dạy kèm trẻ nhỏ miễn phí qua Zoom.
    Trên chuyến xe quay về, Hưng quyết định: Anh sẽ cưới cô ấy.
    Người thân, bạn bè đều phản đối. “Mày đ/iên à? 300 triệu để cưới một cô gái bị l;i;ệt? Mày có biết sau này sẽ khổ như thế nào không?” – Nhưng Hưng không nghe. Anh chỉ cười, ánh mắt kiên định: “Khổ hay không, là do mình chọn cách sống. Cô ấy xứng đáng được yêu thương như bất kỳ ai.”
    Hưng trở lại Quảng Trị một lần nữa, lần này là để hỏi cưới. Vy ngỡ ngàng, không tin vào tai mình. Cô không đồng ý ngay. Cô sợ làm gánh nặng, sợ anh chỉ nhất thời cảm động rồi sẽ hối hận. Nhưng Hưng kiên trì, mỗi ngày đều gọi điện, kể chuyện vui, hỏi han từng chút một như một người chồng thật sự. Sau ba tháng, Vy gật đầu.
    Đám cưới diễn ra giản dị trong sự ngỡ ngàng của nhiều người. Không váy cưới lộng lẫy, không hội trường sang trọng, chỉ có một chiếc sân nhỏ được trang trí bằng hoa dại và ánh đèn vàng ấm. Vy ngồi trên x;e l;ăn, còn Hưng thì nắm chặt tay cô không rời.
    Đêm tân hôn, sau bao chuẩn bị, Hưng nhẹ nhàng b//ế vợ vào phòng. Khi cởi áo Vy ra, không phải để ch//i/ếm h//ữu, mà là để thay giúp cô một bộ đồ ngủ thoải mái hơn. Và chính khoảnh khắc đó, anh đã phát hiện ra b/í m/ật khiến tim mình như muốn v/ỡ t/ung… Quý độc giả xem tiếp trong phần bình luận 👇👇👇

    Nguyễn Hưng – một người đàn ông 35 tuổi, làm nghề thợ xây tại một thị trấn nhỏ ở miền Trung. Anh sống độc thân, chăm chỉ làm việc, không có nhiều bạn bè, càng không đặt nặng chuyện yêu đương sau một lần bị phản bội khi còn trẻ. Sau bao năm dành dụm, Hưng tích lũy được hơn 300 triệu đồng – số tiền mà người dân quê anh vẫn xem là “của để dành”, có thể dựng nhà nhỏ hoặc khởi đầu cuộc sống ổn định hơn

    Một hôm, khi đang ăn cơm trưa ở công trình, Hưng đọc được một bài đăng trên mạng xã hội từ một nhóm thiện nguyện. Câu chuyện là về một cô gái tên Lê Vy, 28 tuổi, từng là sinh viên năm cuối ngành sư phạm thì gặp tai nạn xe máy khiến cô bị liệt nửa người từ thắt lưng trở xuống. Gia đình không khá giả, mẹ già đau yếu, ba đã mất, Vy gần như sống tách biệt với xã hội trong một căn nhà nhỏ ở vùng quê nghèo tỉnh Quảng Trị.

    Bài đăng kêu gọi mọi người giúp đỡ, nhưng điều làm Hưng chấn động là đoạn cuối: “Cô ấy từng nói, ước mơ lớn nhất là được khoác váy cưới, có một mái ấm dù chỉ một lần trong đời.”

    Không hiểu vì sao, Hưng thấy tim mình rung lên. Không phải thương hại, không phải nhất thời cảm động – mà là một cảm giác rất thật: anh muốn gặp người con gái đó. Không bàn bạc với ai, không suy tính nhiều, Hưng xin nghỉ vài ngày và bắt xe về Quảng Trị.

    Lần đầu gặp Vy, Hưng ngỡ ngàng. Cô gái ngồi trên xe lăn với đôi chân gầy guộc và ánh mắt buồn vời vợi ấy lại sở hữu một vẻ đẹp thuần khiết đến lạ. Gương mặt không cần son phấn, nụ cười nhẹ dù đầy sự tự ti, nhưng vẫn tỏa ra một nét gì đó khiến người ta muốn lại gần.

    Ba ngày ở lại thăm hỏi, trò chuyện, Hưng thấy trong Vy là cả một bầu trời nghị lực. Dù cơ thể không còn nguyên vẹn, cô vẫn giữ thói quen đọc sách, học ngoại ngữ qua điện thoại, dạy kèm trẻ nhỏ miễn phí qua Zoom

    Trên chuyến xe quay về, Hưng quyết định: Anh sẽ cưới cô ấy.

    Người thân, bạn bè đều phản đối. “Mày điên à? 300 triệu để cưới một cô gái bị liệt? Mày có biết sau này sẽ khổ như thế nào không?” – Nhưng Hưng không nghe. Anh chỉ cười, ánh mắt kiên định: “Khổ hay không, là do mình chọn cách sống. Cô ấy xứng đáng được yêu thương như bất kỳ ai.”

    Hưng trở lại Quảng Trị một lần nữa, lần này là để hỏi cưới. Vy ngỡ ngàng, không tin vào tai mình. Cô không đồng ý ngay. Cô sợ làm gánh nặng, sợ anh chỉ nhất thời cảm động rồi sẽ hối hận. Nhưng Hưng kiên trì, mỗi ngày đều gọi điện, kể chuyện vui, hỏi han từng chút một như một người chồng thật sự. Sau ba tháng, Vy gật đầu.

    Đám cưới diễn ra giản dị trong sự ngỡ ngàng của nhiều người. Không váy cưới lộng lẫy, không hội trường sang trọng, chỉ có một chiếc sân nhỏ được trang trí bằng hoa dại và ánh đèn vàng ấm. Vy ngồi trên xe lăn, còn Hưng thì nắm chặt tay cô không rời.

    Đêm tân hôn, sau bao chuẩn bị, Hưng nhẹ nhàng bế vợ vào phòng. Khi cởi áo Vy ra, không phải để chiếm hữu, mà là để thay giúp cô một bộ đồ ngủ thoải mái hơn. Và chính khoảnh khắc đó, anh đã phát hiện ra bí mật khiến tim mình như muốn vỡ tung

    Khi Hưng nhẹ nhàng cởi chiếc áo cưới lụa trắng, anh cố không để Vy cảm thấy ngại ngùng. Nhưng ánh mắt anh bất chợt sững lại khi nhìn thấy hàng chữ xăm nhỏ nằm phía bên trái lồng ngực của cô. Những ký tự tiếng Pháp tinh tế, anh đọc được ngay vì từng theo học nghề xây dựng ở Pháp vài năm trước:

    “Je suis encore en vie – Tôi vẫn còn sống.”

    Bên dưới dòng chữ là hình một chiếc cây khô trụi lá, nhưng ở phần gốc có vài chồi non đang vươn lên. Hưng nghẹn lời. Anh không thể tin cô gái với dáng người yếu ớt này lại mang trong tim một nội lực phi thường như thế.

    Vy thấy ánh mắt anh dừng lại, cô hơi lúng túng, kéo tấm chăn che đi. Nhưng Hưng nắm lấy tay cô:– Em xăm từ khi nào?

    – Sau tai nạn… Lúc đó em từng nghĩ mình đã chết, nhưng rồi em nhận ra, chỉ cần mình còn thở, còn suy nghĩ, là mình vẫn còn sống. Em không muốn sống như một cái xác không hồn…

    Nói rồi, Vy kể hết. Về chuỗi ngày sau tai nạn, cô bị bạn trai bỏ rơi, bạn bè xa lánh, thậm chí người thân cũng dần lạnh nhạt. Đã có lúc cô nghĩ đến việc kết thúc tất cả. Nhưng rồi một hôm, cô nhìn thấy người mẹ già run rẩy đẩy xe lăn cho cô đi mua thuốc. Khi ấy, Vy bật khóc – và thề rằng sẽ sống, sống để không phụ lòng mẹ.

    Hưng im lặng thật lâu, rồi anh vòng tay ôm Vy thật chặt, không nói lời nào. Bởi anh biết, bất kỳ lời an ủi nào cũng sẽ là thừa. Người phụ nữ này không cần được thương hại – cô xứng đáng được ngưỡng mộ.

    Hưng không “có được vợ” như những người đàn ông khác, mà là trúng số độc đắc – vì anh cưới được một người con gái đẹp nhất từ bên trong.

    Những ngày sau đó, cuộc sống vợ chồng họ không hề dễ dàng. Vy không thể tự di chuyển, mọi sinh hoạt đều cần đến sự giúp đỡ. Nhưng chưa một lần Hưng than vãn. Buổi sáng anh dậy sớm lo bữa ăn, rồi ra công trình. Tối về lại tắm rửa cho vợ, đọc sách cùng cô, trò chuyện như những đôi vợ chồng bình thường.

    Một năm sau, với sự chăm sóc và vật lý trị liệu đều đặn, đôi chân Vy bắt đầu có phản ứng nhẹ. Đó là ngày Hưng bật khóc. Lần đầu tiên trong đời, anh tin vào phép màu.

    Câu chuyện của họ được lan truyền khắp mạng xã hội, nhưng Hưng vẫn giữ nếp sống giản dị. Khi được hỏi có cảm thấy “thiệt thòi” không khi cưới một người như Vy, anh chỉ cười:

    – Tôi không bỏ 300 triệu để lấy một người vợ bị liệt. Tôi đã bỏ số tiền ấy để mua được một điều vô giá – đó là hạnh phúc thật sự.

  • Lấy chồng 3 năm, đêm nào chồng cũng ôm gối sang phòng mẹ ngủ. Không chịu nổi nữa, một đêm vợ lén qua phòng mẹ chồng thì bủn rủn phát hiện sự thật

    Tôi bị gả đi như một món hàng.
    Mẹ kế tôi nói: “Nhà đó giàu có, con chỉ cần ngoan ngoãn, coi như đổi đời.”
    Tôi im lặng, không phản kháng. Có lẽ vì từ ngày cha mất, tôi đã quen với cảm giác mình chẳng có quyền lựa chọn.

    Chú rể của tôi là An – người đàn ông được đồn là tàn tật, suốt ngày ngồi xe lăn. Người ta bảo anh từng là thiếu gia nổi tiếng, nhưng sau một vụ tai nạn xe, đôi chân liệt hoàn toàn, vị hôn thê bỏ đi, còn anh thì sống ẩn dật trong căn biệt thự lạnh lẽo.

    Và tôi – một cô gái nghèo, chẳng danh phận – trở thành “vợ của người tàn phế”.

    Đám cưới diễn ra trong sự lặng lẽ. Không pháo, không tiếng nhạc, không nụ cười. Chỉ có tôi, trong chiếc váy trắng cũ, đứng cạnh người đàn ông trầm tĩnh ấy, nhận những ánh nhìn thương hại và dèm pha.

    Khi xe đưa tôi về nhà chồng, mẹ kế chỉ kịp nói nhỏ:

    “Nhớ giữ mồm giữ miệng, đừng để mất lòng nhà họ.”
    Rồi bà quay đi, như vừa buông xuống một món hàng giao xong cho người ta.

    Căn biệt thự nơi tôi đến đẹp nhưng lạnh.
    Người hầu ít, không khí im lìm.
    Anh – người chồng mới cưới – chỉ khẽ gật đầu, nói giọng đều đều:

    “Từ nay, cô cứ ở đây, muốn làm gì thì làm. Tôi không can thiệp.”

    Không gọi tôi là “vợ”, không nhìn tôi lâu hơn một giây.
    Chúng tôi sống cùng nhà mà như hai người xa lạ.

    Ban ngày anh đọc sách trong thư phòng. Ban đêm tôi ngủ ở phòng bên cạnh.
    Thỉnh thoảng, tiếng bánh xe lăn trên sàn gỗ vang lên đều đặn – âm thanh ấy trở thành nhịp thời gian của căn nhà.

    Tôi từng nghĩ:

    “Mình đã hết đời rồi. Một cuộc hôn nhân mua bán, một người chồng chẳng thể bước đi.”

    Đêm tân hôn, người giúp việc đã về hết.

    Anh ngồi bên giường, còn tôi loay hoay cầm chăn. Không khí im phăng phắc.

    Tôi run, không biết phải nói gì. Anh thấy thế, khẽ nói:

    “Cô không cần thương hại tôi. Tôi biết tôi là gánh nặng.”

    Tôi vội lắc đầu:

    “Không… không phải vậy…”

    Rồi không hiểu sao, tôi lại bước đến, khom người xuống:

    “Để tôi giúp anh lên giường nghỉ.”

    Anh thoáng sững, đôi mắt sâu hun hút nhìn tôi, rồi gật đầu khẽ.

    Tôi vòng tay qua lưng anh, cố gắng cõng anh lên. Nhưng anh nặng hơn tôi tưởng.
    Chỉ vài bước, chân tôi trượt phải mép thảm, cả hai cùng ngã xuống nền gỗ.

    Tiếng “rầm” vang lên, đau điếng.
    Tôi vội chống dậy, định xin lỗi, nhưng bỗng khựng lại.

    Dưới lớp chăn mỏng, tôi cảm nhận được một thứ gì đó cử động.

    Anh cũng nhìn tôi – ánh mắt chợt thay đổi.
    Cả hai sững lại vài giây trong im lặng.

    Tôi lắp bắp:

    “Anh… anh còn cảm giác sao?”

    Anh cúi đầu, cười nhẹ – nụ cười vừa buồn, vừa bất lực:

    “Bác sĩ nói, nếu tập vật lý trị liệu, có thể đi lại được. Nhưng tôi không muốn nữa. Khi người ta bỏ anh lại chỉ vì anh không còn đứng vững, thì có đi lại được hay không… còn nghĩa gì đâu.”

    Giọng anh trầm, khàn.
    Tôi bỗng thấy nghèn nghẹn. Không phải vì thương hại, mà vì thấy nỗi đau trong lòng anh còn sâu hơn vết thương ở chân.

    Đêm đó, tôi nằm bên ngoài, trằn trọc không ngủ được.
    Câu nói ấy lặp lại mãi trong đầu tôi:

    “Không còn lý do để cố nữa.”

    Những ngày sau, tôi bắt đầu thay đổi.
    Buổi sáng, tôi đẩy xe lăn đưa anh ra ban công, bắt anh ngắm bình minh dù anh cau mày:

    “Tôi không thích ánh sáng.”
    Tôi cười:
    “Nhưng ánh sáng vẫn thích anh, nên đừng trốn nữa.”

    Anh im lặng, rồi không hiểu sao… cũng thôi không chống đối.

    Cứ thế, sáng nào tôi cũng ép anh ra vườn. Tôi kể chuyện linh tinh, chuyện hàng xóm, chuyện tôi từng bị mẹ kế nhốt trong bếp, chuyện cái váy cưới mượn tạm người khác.
    Anh nghe, đôi khi khẽ cười.
    Nụ cười đầu tiên tôi thấy sau nhiều ngày.

    Tôi cũng tập cho anh đứng. Ban đầu, chỉ vài giây. Rồi vài bước. Anh ngã, tôi đỡ. Anh đau, tôi xoa chân.
    Anh nói:

    “Em không sợ tôi à?”
    Tôi đáp:
    “Không. Chỉ sợ anh bỏ cuộc.”

    Tôi không biết từ khi nào, trong ánh mắt anh không còn lạnh nữa.
    Và trong tim tôi, nỗi sợ ngày cưới dần tan biến.

    Một tối, anh kể:

    “Ngày tôi bị tai nạn, cô ta bảo: ‘Em không thể sống với người tàn phế.’ Rồi đi. Tôi cố gắng tập đi suốt nửa năm. Nhưng càng cố, tôi càng thấy mình vô nghĩa.”

    Tôi lặng im, rồi hỏi:

    “Nếu có người ở lại, anh có cố không?”
    Anh nhìn tôi:
    “Có lẽ.”

    Câu trả lời đó khiến tim tôi nhói lên.
    Không phải thương hại. Là cảm động.
    Vì tôi hiểu, tôi cũng từng như anh – một kẻ bị bỏ rơi, không còn tin rằng mình xứng đáng được yêu.

    Một ngày nọ, mẹ kế tôi tìm đến.
    Vẫn giọng điệu cũ:

    “Giờ mày sống sung sướng rồi, nhớ gửi ít tiền cho mẹ. Tao bán mày đâu có uổng.”

    Tôi chưa kịp nói thì anh đã đến. Anh lặng lẽ đặt lên bàn một tấm séc:

    “Cảm ơn bà đã mang cô ấy đến với tôi. Nhưng từ nay, bà không còn quyền gì với cô ấy nữa.”

    Mẹ kế ngây ra, mặt biến sắc. Còn tôi… nước mắt rơi.
    Lần đầu tiên trong đời, có người đứng ra bảo vệ tôi, không vì lợi ích, không vì nghĩa vụ.

    Tối đó, tôi ngồi bên giường anh, khẽ nói:

    “Cảm ơn anh.”
    Anh mỉm cười:
    “Anh không làm vì em nợ anh. Anh làm vì anh nợ chính mình – đã để em phải chịu cô đơn quá lâu.”

    Thời gian trôi, anh đã có thể đi được vài bước, rồi nhiều hơn.
    Mỗi sáng, anh vẫn chống gậy, tôi vẫn nắm tay anh, chậm rãi đi quanh vườn.
    Anh hỏi:

    “Nếu một ngày anh đi lại bình thường, em có rời đi không?”
    Tôi cười:
    “Nếu anh vẫn cần người pha cà phê dở, em ở lại.”

    Anh bật cười, cái cười làm tan cả sương sớm.

    Một buổi sáng, tôi tỉnh dậy không thấy anh.
    Hoảng hốt chạy ra vườn, tôi đứng sững.

    Anh đang đi, không gậy, không vịn, chậm mà vững.
    Nắng sớm rơi xuống vai anh, long lanh như giọt nước mắt tôi vừa rơi.

    Anh đến gần, nắm lấy tay tôi:

    “Anh đã tìm lại được đôi chân, nhờ em.
    Nhưng em biết không – thứ em chữa cho anh, không phải chân, mà là tim.”

    Tôi khóc, ôm lấy anh.
    Và tôi hiểu, đêm ấy khi cả hai cùng ngã, không chỉ có cơ thể chạm đất, mà trái tim chúng tôi cũng chạm nhau lần đầu tiên.

    Giờ đây, căn nhà ngày xưa lạnh lẽo ấy đầy tiếng cười.
    Mỗi sáng, anh tự bước ra ban công, rót cho tôi tách trà.
    Tôi hỏi đùa:

    “Anh còn nhớ đêm tân hôn không?”
    Anh cười:
    “Nhớ chứ. Hôm ấy, em cõng anh. Còn hôm nay, đến lượt anh cõng em – đi qua nửa đời bình yên.”

    Tôi tựa đầu vào vai anh, khẽ mỉm cười.
    Hóa ra, người ta không cần đôi chân khỏe mạnh để bước đi trong đời, chỉ cần một trái tim đủ mạnh để bước về phía nhau.

    Chia b;uồn với hơn 86.000 Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố

    Khi mô hình chính quyền 2 cấp đã được triển khai, nhiều quy định về nhân sự cũng thay đổi. Vậy, quy trình bãi nhiệm Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố năm 2025 được thực hiện như thế nào?

    Bãi nhiệm Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố

    Theo khoản 9 Điều 1 Thông tư 14/2018/TT-BNV thì việc miễn nhiệm trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố được thực hiện theo quy định của Nghị quyết liên tịch 09/2008/NQLT-CP-UBTWMTTQVN.

    Theo đó, Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố có thể được miễn nhiệm trong các trường hợp sau đây:

    – Do sức khoẻ.

    – Do hoàn cảnh gia đình.

    – Vì lý do khác.

    Ngoài ra, tại khoản 2 Điều 13 Thông tư 04/2012/TT-BNV có quy định:

    Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố và Phó Trưởng thôn, Tổ phó tổ dân phố được đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn những kiến thức, kỹ năng cần thiết;

    – Nếu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thì được biểu dương, khen thưởng;

    – Không hoàn thành nhiệm vụ, có vi phạm khuyết điểm, không được nhân dân tín nhiệm thì tùy theo mức độ sai phạm sẽ bị miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc truy cứu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.

    Như vậy, theo quy định nêu trên, Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố có thể được miễn nhiệm trong trường hợp không đảm bảo sức khỏe, do hoàn cảnh gia đình, do không hoàn thành nhiệm vụ, có vi phạm khuyết điểm, không được nhân dân tín nhiệm thì tùy theo mức độ sai phạm sẽ bị miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc truy cứu trách nhiệm theo quy định của pháp luật hoặc vì lý do khác.

    Trường hợp bãi nhiệm Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố (Ảnh minh họa).

    Quy trình tổ chức miễn nhiệm Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố

    Thủ tục, trình tự tổ chức việc miễn nhiệm Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố được quy định tại Điều 10 Hướng dẫn ban hành kèm theo Nghị quyết liên tịch 09/2008/NQLT-CP-UBTWMTTQVN như sau:

    – Người xin miễn nhiệm phải có đơn, trong đó nêu rõ lý do của việc xin miễn chức danh Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố gửi Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã. Trường hợp Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố được điều động làm công tác khác thì không cần có đơn xin miễn nhiệm;

    – Việc miễn nhiệm Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố được thực hiện tại hội nghị cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình ở thôn, tổ dân phố. Trưởng ban công tác Mặt trận thôn, tổ dân phố chủ trì hội nghị miễn nhiệm Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố;

    Hội nghị miễn nhiệm Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố được tiến hành khi có trên 50% số cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình trong thôn, tổ dân phố tham dự;

    – Trình tự hội nghị miễn nhiệm Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố:

    Ads

    + Trưởng ban công tác Mặt trận thôn, tổ dân phố chủ trì hội nghị, nêu lý do, yêu cầu của hội nghị;

    + Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố trình bày lý do của việc xin miễn nhiệm;

    + Hội nghị thảo luận, đánh giá quá trình hoạt động của Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố;

    + Hội nghị tiến hành biểu quyết. Việc biểu quyết được thực hiện bằng hình thức giơ tay hoặc bỏ phiếu kín do hội nghị quyết định. Hội nghị cử Tổ kiểm phiếu từ 3 đến 5 người để làm nhiệm vụ;

    + Trường hợp có trên 50% so với tổng số cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình trong toàn thôn, tổ dân phố tán thành việc miễn nhiệm Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố thì Trưởng ban công tác Mặt trận thôn, tổ dân phố báo cáo Ủy ban nhân dân cấp xã xem xét, miễn nhiệm.

    – Trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được báo cáo của Trưởng ban công tác Mặt trận thôn, tổ dân phố, Ủy ban nhân dân cấp xã phải xem xét, ra quyết định công nhận kết quả miễn nhiệm chức danh Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã quyết định cử Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố lâm thời để điều hành hoạt động của thôn, tổ dân phố cho đến khi bầu được Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố mới; trường hợp Ủy ban nhân dân cấp xã không ra quyết định công nhận kết quả miễn nhiệm thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do;

    Việc bầu Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố mới phải được tiến hành trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày Ủy ban nhân dân cấp xã ra quyết định công nhận kết quả miễn nhiệm Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố.

    Quy trình bầu Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố mới thực hiện theo quy định tại Điều 6, Điều 7 và Điều 8 Hướng dẫn ban hành kèm theo Nghị quyết liên tịch 09/2008/NQLT-CP-UBTWMTTQVN.

    (Ảnh minh họa)

    Nhiệm kỳ của Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố

    Nhiệm kỳ của Trưởng thôn, nhiệm kỳ của Tổ trưởng tổ dân phố như sau:

    – Trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố có nhiệm kỳ là 2,5 năm (hai năm rưỡi) hoặc 05 năm (năm năm) do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định thống nhất và phù hợp với điều kiện cụ thể ở địa phương.

    – Trường hợp do thành lập thôn mới, tổ dân phố mới hoặc khuyết Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã quyết định cử Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố lâm thời để điều hành hoạt động của thôn, tổ dân phố cho đến khi bầu được Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố trong thời hạn không quá sáu tháng kể từ ngày có quyết định cử Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố lâm thời.

    (Khoản 3 Điều 12 Thông tư 04/2012/TT-BNV (sửa đổi, bổ sung tại Thông tư 14/2018/TT-BNV).

  • Ông vuốt tóc tôi, nói khẽ: “Từ nay ba sẽ thay mẹ chăm hai con. Ba hứa.”

    Ngày mẹ mất, hai chị em tôi còn nhỏ lắm. Tôi lên năm, em tôi mới biết lẫy. Hình ảnh về mẹ trong tôi chỉ còn là mùi hoa bưởi thoang thoảng mỗi khi gió thoảng qua hiên nhà, và nụ cười như ánh nắng đứng bên lu nước. Người ta nói mẹ hiền và đẹp. Nhưng đẹp thì hay khổ. Đời mẹ là một minh chứng.

    Ngày mẹ mất, trời đổ mưa trắng mái nhà tranh. Bên gốc cau ướt sũng, có một người đàn ông lặng lẽ quỳ bên linh cữu, đôi vai run run. Ông vuốt tóc tôi, nói khẽ:

    “Từ nay ba sẽ thay mẹ chăm hai con. Ba hứa.”

    Người đàn ông đó không phải ruột rà gì. Nhưng từ khoảnh khắc ấy, ông trở thành Ba.

    Ba tên Hòa. Người đàn ông lam lũ nhất làng. Ba đi biển, đi rừng, cày ruộng, bốc vác… chỉ để hai chị em tôi được đến trường như bao đứa khác. Mùa nước nổi, ba ngủ ngoài đồng canh lúa. Cả đôi tay chai sần, đầy sẹo cũ sẹo mới. Thỉnh thoảng, người ta chọc ghẹo:

    “Nuôi con người ta như nuôi con phượng hoàng. Mai mốt nó bay mất rồi ông ở với ai?”

    Ba chỉ cười:

    “Nó bay được thì ba mừng.”

    Nhưng mỗi khi đêm xuống, tôi từng thấy ba ngồi trước bàn thờ mẹ, ánh mắt xa xăm đầy thương nhớ và cũng đầy hy sinh lặng lẽ. Ông không hề tái hôn. Dù xung quanh không thiếu người muốn chung vai cùng ông.

    Năm tháng trôi đi như nước dưới xuồng. Tôi vào đại học, em tôi cũng sắp tốt nghiệp. Cả hai luôn tâm niệm: kiếm được tiền, sẽ cho ba cuộc sống tốt hơn.


    Sinh nhật 60 tuổi của ba. Chúng tôi trở về quê, chuẩn bị một buổi tiệc bất ngờ. Ba lúng túng cười:

    “Mất công mấy đứa quá…”

    Niềm hạnh phúc ấy còn chưa kịp tròn thì… một người đàn ông lạ đứng sau cánh cổng tre.

    Ông ta mặc áo sơ mi đắt tiền, tóc vuốt ngược. Gương mặt có nét giống tôi đến khó tin. Ông nhìn tôi thật lâu, rồi hỏi:

    “Con… có nhớ tôi không?”

    Tôi rùng mình. Không một chút ký ức.

    Ba bước ra, bỗng khựng lại. Gương mặt ông cứng đờ. Tôi chưa bao giờ thấy ba như vậy.

    Người đàn ông tự giới thiệu:

    “Tôi là cha ruột của hai đứa.”

    Câu nói rơi xuống sân gạch như tiếng đá nặng nề đánh vỡ bình yên bao năm.

    Ông ta đưa ra giấy xét nghiệm ADN. Em tôi mặt trắng bệch. Tôi nhìn ba. Ba cúi đầu không nói. Chính sự im lặng ấy… khiến lòng tôi như có ai bóp nghẹn.

    “Vậy… ông là ai suốt bao năm qua?”
    Tôi bật lên mà không kịp nghĩ.

    Ba cười, một nụ cười nhạt và đau:

    “Ba chỉ là người thay mẹ chăm hai con… vậy thôi.”

    Người đàn ông kia tiếp lời bằng giọng điềm nhiên đến tàn nhẫn:

    “Tôi muốn nhận lại con. Chúng nó phải mang họ tôi.”

    Những lời ấy như phủ nhận tất cả những giọt mồ hôi, năm tháng và nước mắt ba đã dành cho chúng tôi.

    Tôi tức giận. Nhưng… tôi cũng hoang mang. Huyết thống — đó là điều tôi không bao giờ nghĩ tới.

    Tôi không biết phải tin ai.

    Tối đó, ba nằm quay mặt vào vách. Vai ông run nhẹ. Tôi nghe tiếng thở dài đứt quãng mà đau đến nhói tim.

    Tôi hỏi:

    “Sao ba không nói gì? Ba giấu tụi con chuyện này để làm gì?”

    Ba khẽ đáp:

    “Vì ba sợ các con đau.”

    Ông mất ngủ đêm ấy.

    Chúng tôi cũng vậy.


    Tin cha ruột trở về khiến cả làng xôn xao. Người ta đồn thổi, bàn tán, moi móc quá khứ của mẹ. Những lời độc địa như gai độc cắm vào vết thương chưa kịp khép.

    Chúng tôi lao vào tìm hiểu. Ba chỉ im.

    Một chiều mưa, tôi mở căn tủ gỗ cũ của mẹ. Dưới đáy, một chiếc hộp cài khóa. Tôi dùng chìa ba vẫn giữ… và tìm thấy:

    Nhật ký của mẹ

    Những lá thư chưa kịp gửi

    Một tờ giấy khai báo bị giấu kín

    Tôi đọc. Mắt nhòe đi…

    Mẹ viết rằng:

    Cha ruột đã bỏ rơi mẹ khi biết mẹ mang thai.
    Ông ta đánh, đuổi, gọi mẹ là nỗi nhục.
    Mẹ ôm bụng chạy trong đêm mưa bão, ngã xuống đường.
    Và chính ba Hòa đã bế mẹ lên, đưa về nhà, chăm sóc từng bữa ăn giấc ngủ.

    Nhưng sự thật chưa dừng lại ở đó…

    Chỉ em tôi là con ruột của ông ta.
    Còn tôi — được sinh ra từ một đêm định mệnh trước đó:
    Mẹ bị một người đàn ông lạ xâm hại khi đi làm xa.

    Mẹ đã muốn bỏ đi tất cả. Nhưng ba Hòa đã nói:

    “Em cứ sinh con.
    Anh sẽ thương nó như thương chính ruột thịt của mình.”

    Và ba đã làm như vậy suốt ba mươi năm.

    Tôi vừa đọc vừa ôm ngực.
    Không phải đau.
    Mà tự nhục vì đã nghi ngờ ba.

    Tôi chạy ra hiên, trời đổ mưa y như đêm mẹ bỏ trốn năm xưa. Em tôi theo sau, nước mắt đầm đìa:

    “Mẹ đã lựa chọn đúng người.
    Chúng ta cũng phải lựa chọn như mẹ.”


    Chúng tôi tìm ba ngoài bờ sông. Ông ngồi trên chiếc cầu xi măng, tay vò chiếc nón lá rách nát. Khi nghe tiếng chân chúng tôi, ba quay lại.

    Trong mắt ông là sự chờ đợi… và sợ hãi. Sợ chúng tôi rời bỏ ông.

    Chúng tôi sụp xuống trước mặt ba.

    “Ba không sinh ra tụi con.
    Nhưng ba nuôi tụi con lớn bằng cả sinh mạng của ba.
    Ba mới là CHA của tụi con.”

    Ba bật khóc. Lần đầu tiên trong đời tôi thấy ba khóc như một đứa trẻ bị cướp đi bảo vật quý nhất đời.


    Người đàn ông kia — sau khi bị phơi bày sự thật — rời đi trong im lặng. Ông ta gọi em tôi là “con”… nhưng chỉ để giữ chút danh dự. Còn tôi… ông ta lảng tránh, không dám đối mặt với sự hèn nhát của chính mình.

    Em tôi nói:

    “Con không cần cha ruột. Con chỉ cần ba.”


    Buổi sinh nhật được tổ chức lại. Không còn hoa hoè, không còn bàn thịnh soạn. Chỉ có một chiếc bánh nhỏ và hai đứa con đứng bên cạnh người cha duy nhất của mình.

    Ba nhìn lên bàn thờ mẹ, giọng run run:

    “Mình giữ được con, nghe bà…”

    Rồi ba quay sang chúng tôi:

    “Cảm ơn vì đã không bỏ ba.”

    Chúng tôi ôm ba thật chặt.
    Ngoài hiên, gió đưa hương bưởi thoang thoảng.
    Giống như mẹ đang mỉm cười.


    Tôi học được một điều:

    Gia đình không đo bằng máu.
    Mà đo bằng tình yêu và sự hy sinh.

    Ba không có dòng máu của chúng tôi.
    Nhưng ông có cả trái tim dành cho chúng tôi.

    Và trái tim ấy…
    chính là huyết thống thiêng liêng nhất.

  • Con dâu bận đi công tác, để cháu cho bà nội trông, trở về thấy nhà cửa vẫn ngăn nắp, cháu ngủ ngon, nhưng mở tủ lạnh ra thì mẹ trẻ bỗng gào khóc ngất lịm

    Chị Hạnh lấy chồng muộn, 6 năm chạy chữa khắp nơi mới sinh được cậu con trai đầu lòng. Bởi vậy, đứa bé là “báu vật” của cả gia đình, đặc biệt là với vợ chồng chị.

    Một lần, công ty cử chị đi công tác đột xuất 3 ngày. Ban đầu chị định đưa con đi cùng, nhưng chồng khuyên:

    “Có bà nội ở nhà, để bà trông cho, em yên tâm đi làm.”

    Thấy mẹ chồng tỏ vẻ vui vẻ, nhiệt tình nhận trông cháu, chị cũng xuôi lòng.

    Ba ngày công tác trôi qua, chị trở về. Căn nhà quen thuộc vẫn ngăn nắp, gọn gàng. Trong phòng, con trai đang ngủ ngoan trong nôi, hơi thở đều đều, khuôn mặt hồng hào. Mẹ chồng ngồi cạnh, vừa quạt vừa khe khẽ hát ru. Nhìn cảnh tượng ấy, tim chị như tan chảy vì hạnh phúc, nghĩ bụng “may mắn có bà”.

    Chị Hạnh bước xuống bếp dọn đồ, mở tủ lạnh để cất thực phẩm mang về. Và rồi…

    Cánh cửa tủ vừa bật ra, chị sững sờ, cả người run lên bần bật. Bên trong, ngăn trên cùng là hàng chục hộp thủy tinh được xếp ngay ngắn. Mỗi hộp đều dán nhãn ghi ngày tháng cẩn thận. Trên nắp, nét chữ của mẹ chồng hiện rõ: “Sữa của H…”, “Sữa của M…” – đó là tên đứa con trai chị.

    Chị hoảng hốt, mở nắp một hộp ra, mùi tanh nồng xộc thẳng vào mũi. Tim chị nghẹt thở, mọi thứ trước mắt tối sầm lại. Chị gào khóc, ôm ngực rồi ngã quỵ ngay dưới nền gạch lạnh ngắt.

    Trong phòng, con trai vẫn ngủ say, không hề biết sóng gió khủng khiếp vừa ập xuống gia đình nhỏ của mình.

    Câu hỏi rợn người dội lên trong đầu chị:
    “Mẹ chồng đã làm gì với chính giọt máu của con đây trời ơi…?”

  • 40 t/uổi, lần đầu tới thăm nhà bạn trai, vừa nhìn thấy thứ trong phòng ngủ mà tôi t/ái m/ét mặt mày vội vàng bỏ chạy

    Tôi năm nay đã gần 40 tuổi. Ở tuổi này, người ta thường nói đàn bà đã qua một lần đò thì sẽ khó mở lòng, mà mở rồi thì lại càng sợ sai thêm lần nữa. Tôi cũng vậy. Cuộc hôn nhân đầu khiến tôi kiệt quệ cả về cảm xúc lẫn niềm tin, đến mức từng nghĩ phần đời còn lại chỉ nên sống một mình cho xong.

    Thế rồi tôi gặp anh, người đàn ông 43 tuổi, lịch sự, hiểu chuyện, dịu dàng một cách rất vừa phải. Chúng tôi quen nhau qua một cuộc gặp tình cờ ở công ty đối tác. Anh không màu mè, không hứa hẹn nhiều, chỉ luôn ở bên cạnh tôi bằng sự tử tế lặng lẽ. Tôi ưng anh ngay từ những buổi hẹn đầu, bởi sau những đổ vỡ, phụ nữ chỉ cần một người đối xử chân thành là đã thấy đủ.

    Khoảng 3 tháng trở lại đây, chúng tôi hay nói về tương lai. Không phải những kế hoạch to tát, chỉ là chuyện hai người về sống chung, tổ chức một lễ cưới đơn giản có vài chục khách. Tôi đã nghĩ có lẽ trời thương mình, vẫn cho mình một cơ hội. Cho đến hôm tôi tới thăm nhà riêng của anh.

    Hôm đó là cuối tuần, anh bảo tôi cứ ghé chơi, anh nấu bún cá. Nhà anh gọn gàng, sạch sẽ, mọi thứ được sắp xếp chỉn chu đúng kiểu một người đàn ông sống một mình lâu năm. Tôi còn thấy vui trong lòng vì nghĩ nếu sau này về sống chung chắc cũng không quá vất vả.

    Mọi chuyện chỉ trở nên bất ổn khi tôi bước vào phòng ngủ của anh.

    U40 lần đầu tới thăm nhà bạn trai, vừa nhìn thấy thứ trong phòng ngủ, tôi tái mét mặt mày vội vàng bỏ chạy- Ảnh 1.

    Ảnh minh họa

    Tôi đứng ở cửa thôi, chưa có ý định vào hẳn nhưng ngay trên góc trần nhà, chếch về phía giường ngủ, có một thứ khiến tôi khựng lại: một chiếc camera nhỏ, gắn sát mép tủ, đèn xanh nhấp nháy mờ mờ.

    Tôi nhìn nó đến vài giây, không tin vào mắt mình, rồi nhìn lại một lần nữa, không thể lầm được.

    Một chiếc camera trong phòng ngủ.

    Tôi không nói gì, chỉ lùi ra ngoài và thấy cổ họng mình khô lại. Rất nhiều suy nghĩ ùa đến, hỗn loạn đến mức tôi không nghe rõ tiếng anh hỏi từ trong bếp: “Em uống nước lọc hay nước lạnh?”.

    Tôi nhớ rõ cảm giác da mình nổi gai. Tôi đã từng trải qua một cuộc hôn nhân tệ hại, từng chứng kiến những gương mặt tử tế ban đầu nhưng dần lộ những khoảng tối đáng sợ của họ. Tôi từng hứa với bản thân, chỉ cần linh cảm thấy điều gì không đúng, tôi sẽ lùi lại ngay lập tức.

    Nhưng với anh, tôi không ngờ lại phải cảnh giác theo cái cách này.

    Tôi lấy lý do đau đầu để về sớm. Suốt chặng đường chạy xe, tôi vẫn ám ảnh hình ảnh cái camera ấy. Tôi không biết nó dùng để làm gì. Tôi không biết anh quay gì, đã quay ai, đã lưu giữ những hình ảnh nào. Và quan trọng nhất: tại sao phải đặt nó ở phòng ngủ, chĩa về phía giường?

    Những giả thuyết tồi tệ nhất cứ hiện ra: Anh có sở thích kỳ lạ? Anh từng sống với ai và muốn giữ thói quen kiểm soát? Hay là anh… không hề bình thường như vẻ ngoài?

    Tôi cố tìm lý do hợp lý hơn nhưng càng nghĩ càng thấy lạnh. Một người đàn ông 43 tuổi, chín chắn như anh, không thể vô tình mà lắp camera ở nơi riêng tư như thế được.

    Tối hôm đó, anh gọi cho tôi, vẫn giọng nói ấm áp như mọi ngày. Anh hỏi tôi có mệt không, hỏi mai có muốn đi ăn sáng? Tôi nghe mà lòng nặng xuống.

    Đến giờ tôi vẫn chưa hỏi anh chuyện chiếc camera. Tôi không biết nên hỏi thẳng hay cứ lặng lẽ rút lui. Tôi cũng không biết mình có đang quá nhạy cảm hay linh cảm của phụ nữ đôi khi đúng hơn lý trí?

  • Chăm cháu ngoại 8 năm khi rời đi chỉ nhận được chiếc túi nhỏ, tưởng là tiền các con biếu nhưng mở ra tôi sững sờ

    Tôi là một người mẹ, một người bà như bao người phụ nữ khác. Đã bước sang tuổi ngoài 60, lẽ ra cái tuổi này tôi nên được nghỉ ngơi, thảnh thơi bên chén trà nóng, ngồi sân sau ngắm cây cối, thỉnh thoảng ghé chợ, gặp mấy bà bạn già chuyện trò sớm hôm. Nhưng suốt 8 năm qua, tôi đã rời quê, lên thành phố sống cùng vợ chồng con gái để chăm cháu ngoại.

    8 năm, tưởng chừng là một khoảng thời gian trôi qua rất nhanh, nhưng với tôi là cả một đoạn đời.

    Hôm đó, tôi đang lau dọn nhà cửa thì nhận được cuộc gọi của con gái, giọng nó run run:

    – Mẹ ơi, con với chồng đi làm suốt, không có ai đón Nấm, cơm nước cũng chẳng kịp lo. Mẹ lên với tụi con một thời gian được không?

    Ở đầu dây bên kia, tôi còn nghe tiếng con bé Nấm lí nhí:

    – Bà ngoại ơi, bà ngoại lên ở với con nha…

    Tôi buông chiếc khăn lau đang cầm trên tay, nước mắt ứa ra. Trong lòng tôi lúc ấy không nghĩ gì nhiều, chỉ biết phải đi, phải lên với tụi nó. Vội vã thu xếp, tôi để di ảnh chồng vào đáy vali, bắt chuyến xe sớm nhất lên thành phố. Tôi nghĩ, lên vài tháng giúp tụi nó ổn định rồi về. Nhưng cuối cùng, tôi ở lại… tròn 8 năm.
    Chăm cháu ngoại 8 năm khi rời đi chỉ nhận được chiếc túi nhỏ, tưởng là tiền nhưng mở ra tôi sững sờ - 1
    Nhận cuộc gọi của con gái, tôi vội vã thu xếp hành lý lên thành phố. (Ảnh minh họa)

    Từ hôm đến đó tới giờ, tôi chưa từng có một hôm ngủ nướng hay nghỉ ngơi đúng nghĩa. Mỗi ngày trời còn chưa kịp sáng, tôi đã lọ mọ dậy chuẩn bị đồ ăn sáng, chuẩn bị cặp sách cho cháu, rồi gọi hai vợ chồng nó dậy đi làm. Đưa cháu đến trường xong lại về nhà lau nhà, giặt giũ, dọn dẹp. Mỗi bữa cơm luôn đủ canh đủ món, vì tôi biết đứa con gái tôi bận rộn, con rể cũng vậy, tôi không muốn tụi nó về nhà mà còn phải lo nghĩ thêm.

    Tôi từng nghĩ, mình là người ngoài, sống nhờ nhà con cái thì nên biết điều, làm gì cũng phải chu toàn. Tôi chẳng nề hà chuyện gì. Đến khi Nấm vào lớp một, tôi kiêm luôn việc kèm bài cho nó. Tôi học chưa cao, nhiều bài toán tôi không hiểu nổi, nhưng tôi vẫn lân la hỏi hàng xóm có người làm giáo viên, ghi chú lại rồi tối về chỉ cháu học.

    Có hôm Nấm sốt cao, cả hai vợ chồng nó đều đi công tác xa. Tôi cõng cháu vào viện trong đêm, ngồi bên giường suốt cả đêm không chợp mắt, lau người, canh nhiệt độ từng giờ. Cháu hạ sốt lúc gần sáng, còn tôi thì ngủ gục bên mép giường, tay vẫn cầm chiếc khăn còn ướt.

    Nhiều lúc về khuya, lưng đau buốt, nằm trằn trọc không ngủ được, tôi ngồi ở ban công nhìn ánh đèn đường, nhớ cái sân nhỏ quê nhà, nhớ cây ổi đầu hè, nhớ tiếng gà gáy mỗi sáng. Nhưng rồi tôi lại quay vào, tiếp tục quay cuồng với đống công việc không tên.

    Nói không buồn thì là nói dối. Tôi thấy tủi thân lắm. Có lần sinh nhật tôi, tôi tự tay nấu cơm rồi lặng lẽ ngồi ăn một mình. Vợ chồng nó chỉ nói đúng một câu:

    – Mẹ sinh nhật vui vẻ nha.

    Nói xong, chúng nó tiếp tục ngồi ôm máy tính làm báo cáo. Tôi cười gượng, quay đi giấu nước mắt.

    Nhưng tôi không than vãn. Tôi hiểu tụi nó bận, tôi không muốn mình trở thành gánh nặng. Tôi chỉ mong một ngày nào đó khi cháu lớn hơn, tôi có thể trở về quê, sống nốt những năm tháng tuổi già bên ký ức.
    Chăm cháu ngoại 8 năm khi rời đi chỉ nhận được chiếc túi nhỏ, tưởng là tiền nhưng mở ra tôi sững sờ - 2
    Sống cùng vợ chồng con gái, nhiều khi tôi thấy tủi thân lắm. (Ảnh minh họa)

    Rồi ngày ấy cũng đến. Hè năm nay, con bé Nấm đậu vào trường nội trú trong thành phố. Ngày đưa cháu nhập học, nhìn nó vui vẻ xách balo chạy vào trường, tôi bỗng thấy lòng mình trống rỗng.

    Tối hôm đó, tôi gom hết can đảm nói với vợ chồng con gái:

    – Mẹ nghĩ mẹ nên về quê rồi. Nấm ở nội trú, mẹ ở đây cũng không còn việc gì nhiều…

    Con gái nhìn tôi, sửng sốt rồi đỏ mắt:

    – Mẹ đi rồi, nhà này ai lo? Nhưng mẹ đã quyết rồi thì con không giữ…

    Sáng sớm hôm sau, tôi chuẩn bị hành lý. Cháu gái ôm chân tôi khóc:

    – Bà ngoại đừng đi, con cuối tuần về thăm bà ngoại nha.

    Tôi dỗ cháu, hứa sẽ trồng cà chua ở quê chờ nó về hái. Trước giờ xe chạy, con rể tôi vội vàng đến, dúi vào tay tôi một chiếc túi vải cũ, nói nhỏ:

    – Mẹ ơi, đây là chút tấm lòng tụi con, mẹ hãy giữ lấy nhé.

    Tôi cầm túi, trong lòng nghĩ chắc là ít tiền để tôi tiêu dọc đường hay mang về quê. 8 năm chăm cháu, lo nhà cửa, nếu là giúp việc ngoài, người ta cũng được trả lương. Tôi không đòi hỏi, nhưng tôi nghĩ ít nhiều nó cũng là sự ghi nhận.

    5 tiếng ngồi xe khách, cuối cùng tôi cũng về đến nhà. Sau khi dọn dẹp nhà cửa xong, đến tối tôi mới có thời gian mở chiếc túi con rể đưa. Nào ngờ bên trong không có tiền, chỉ là một túi giấy nhỏ, đầy những mảnh giấy con, thiệp nhỏ, ghi chằng chịt chữ.

    Tôi run run cầm tờ đầu tiên lên đọc. Là nét chữ của cháu gái tôi: “Bà ngoại ơi, sườn xào chua ngọt của bà ngoại là ngon nhất thế giới!”. Tờ tiếp theo là của con gái tôi: “Mẹ, năm ngoái mẹ bệnh mà vẫn dậy nấu sáng cho tụi con. Con cảm ơn mẹ nhiều lắm”. Rồi là thư của con rể: “Mẹ, lần nào con đi công tác, mẹ đều bỏ thuốc say xe vào túi cho con. Con biết hết. Mẹ là người giữ mái ấm này nguyên vẹn…”

    Tôi khóc, nước mắt rơi ướt đẫm những mảnh giấy. Bao nhiêu tủi thân, vất vả, hy sinh… phút chốc tan biến. Thì ra, tôi không bị lãng quên. Tôi không vô hình. Mỗi khoảnh khắc tôi tưởng như lặng lẽ, không ai nhớ đến… chúng đều đã ghi nhớ bằng cả trái tim.

    Từ hôm về quê đến giờ, mỗi sáng tôi đều mang túi giấy ấy ra đọc. Tôi trồng cà chua ngoài sân, tưới nước, bắt sâu, chờ ngày Nấm về hái. Mỗi lần mở túi, tôi lại thấy mình đang ở trong căn bếp nhỏ nơi thành phố, nấu nướng, nghe cháu gái cười, nghe tiếng con gọi: “Mẹ ơi, cơm ngon quá!”

    Tôi chợt hiểu, có những tình yêu không cần phô trương, không cần đong đếm bằng tiền. Nó nằm trong bát cơm nóng, lời hỏi han nhỏ nhẹ và trong những mảnh giấy không màu mè nhưng chứa đựng cả tấm lòng.

    Chiếc túi nhỏ ấy là món quà lớn nhất đời tôi. Là sự công nhận, là yêu thương, là hồi đáp cho 8năm tôi lặng thầm bên con cháu.

  • Mẹ chồng ra chợ Long Biên mua hoa quả nẫu về làm tráp hỏi cưới con dâu nhà quê

    Ngày Minh bảo “mẹ ơi, con muốn cưới Thảo”, bà Hường không gật cũng chẳng lắc. Bà chỉ đặt cái bát xuống, tiếng sứ chạm vào mặt bàn gỗ nghe cạch một cái khô khốc. Ông Quang – chồng bà – nhìn sang, khẽ nhíu mày như muốn nói: “Từ tốn.” Còn Minh, vốn là thằng trai ngoan, lúng túng thêm một lời:
    – Con… con nghiêm túc. Bọn con quen nhau gần hai năm.
    – Nhà nó ở đâu? – bà Hường hỏi, giọng đều.
    – Làng Đông, ngoài đê sông Đáy.
    – Làng Đông? – Bà nhắc lại, khoé môi hất nhẹ. – Làng ấy tao đi qua vài lần. Nghèo rớt mùng tơi, ruộng lúa sát mép đường.

    Minh im. Cậu biết mẹ mình thẳng tính, quen nhìn người qua bề ngoài. Cậu đã về nhà Thảo một lần – đúng hôm mưa lâm thâm. Căn nhà cấp bốn ở mé bên trái cổng làng cũ kỹ, tường quét vôi bong tróc, mái ngói nghiêng, mưa dột, hai chân tường rêu xanh. Nhưng điều Minh nhớ không phải thế. Cậu nhớ lúc đứng tựa hiên, nghe tiếng bà mẹ của Thảo gọi con gái: “Thảo ơi, vào đây con”, trong giọng đó có cái ấm của lửa rơm.

    Bà Hường thì không. Bà nghe đâu nhà gái nghèo, vậy là trong đầu đóng đinh một chữ: “Kèo dưới.” Bà vốn là quản lý một công ty vật liệu xây dựng, quen đối tác lớn, dự tiệc sang; bà ghét cái nghèo luộm thuộm của thôn quê. Trong bữa cơm hôm ấy, bà chốt:
    – Được, cưới. Nhưng lễ lạt phải gọn. Nhà họ nghèo, đừng bày vẽ tốn kém.

    Minh mở miệng định nói về “lễ nghĩa” nhưng ông Quang chạm nhẹ chân con dưới gầm bàn. Ông hiểu vợ: càng cãi, bà càng găng.

    1. Mẹ chồng và những mâm tráp

    Sáng sớm một ngày gần Tết, bà Hường gọi con dâu tương lai qua nhà “thử việc” – tức là phụ bà chọn đồ cưới. Thảo đến, áo len màu be, tóc buộc cao, mắt hiền.
    – Con chào bác ạ.
    – Ừ, ngồi đi. – Bà Hường chỉ chiếc ghế. – Bác nói thẳng, nhà con nghèo thì nghèo, cứ chân thật. Cưới xin lằng nhằng chỉ khổ cha mẹ.

    Thảo khựng một giây, rồi gật:
    – Dạ, nhà con bình thường. Nhưng chuyện cưới xin, bố mẹ con dặn phải làm tròn lễ.
    – Tròn vừa thôi. – Bà cười mỉm, nhưng khóe mắt lạnh.

    Hôm bàn chuyện tráp, bà Hường bảo:
    – Tráp hoa quả, bánh kẹo, chè, rượu, thuốc lá… ừ, truyền thống là thế. Nhưng làm vừa. Hôm mưa lần trước mẹ con đón chúng ta bằng ấm trà, cái kẹo vừng thôi là biết rồi. – Bà lơ đãng nhìn móng tay sơn nude. – Để tao lo.

    Bà quyết tự tay sắm. Không đặt từ các cửa hàng cưới chuyên nghiệp – tốn tiền. Bà bảo Minh:
    – Mẹ lên chợ Long Biên mua. Quả gì cũng có, rẻ mà tươi.
    Minh nói:
    – Hay mẹ đặt tráp chuẩn, cho đàng hoàng…
    – Đàng hoàng với ai? – Bà bật cười. – Với nhà nghèo mà bày vẽ làm gì.

    Tối trước ngày đi hỏi, 2 giờ sáng bà dậy, mặc chiếc áo khoác dạ be, xách túi vải to, gọi chị giúp việc đi cùng. Chợ Long Biên lúc ấy vẫn sáng hắt như một dòng sông ánh đèn. Người xe tấp nập, tiếng gọi í ới. Mùi trái cây chín xen kẽ mùi hoa tàn, mùi ẩm của bìa carton ướt.

    Bà Hường rảo bước, nhắm mấy sạp lề đường: “Quả dập người ta bỏ, gom vào làm nước ép, rẻ bằng nửa.” Bà chọn những chùm nho phơn phớt trắng đã nhũn vài quả; những trái táo Mỹ hơi sẫm màu; xoài da lốm đốm; táo tàu héo.
    – Cô ơi, loại này… – chị giúp việc ngập ngừng.
    – Về gói lá đỏ, ai nhìn cho kỹ mà biết. – Bà liếc.

    Bánh kẹo, bà ghé quầy bán sỉ: mấy thùng kẹo không nhãn tiếng Anh, vài gói bánh in loại rẻ, trà túi lọc không thương hiệu. Chị giúp việc lại ngập ngừng:
    – Hay mình mua loại tốt hơn cho ra thể diện…
    – Thể diện để làm gì? – Bà đáp, như cắt gọn một sợi chỉ.

    Đến khi về, bà gọi dịch vụ bưng tráp chỉ để “bưng cho có người” – còn mọi thứ bà tự xếp. Bà tỉ mỉ cắt những quả dập, xoay mặt đẹp lên, dùng khăn giấy thấm bớt nước; dùng xi đánh bóng vỏ táo. Bà ưng ý.
    – Thế này là phải đạo. Họ nghèo, tráp nhiều lại càng mang tiếng phô trương – bà nói, tự tin như vừa làm một việc thiện.

    Minh nhìn những mâm quả, lòng chùng xuống. Cậu gọi cho Thảo.
    – Mai bọn mình sang sớm nhé. Em đừng… đừng lo gì cả.
    Đầu dây bên kia Thảo cười, tiếng cười mỏng như tơ:
    – Em chỉ mong hai nhà vui vẻ. Anh nói với bác đừng ngại, nhà em tiếp đón được.

    2. Đường về làng Đông

    Sáu giờ sáng, đoàn xe xuất phát: hai xe bảy chỗ, một xe tải nhỏ chở tráp. Bà Hường ngồi ghế đầu, áo dài xanh cổ vịt, tóc uốn gợn, cổ đeo chuỗi ngọc trai. Ông Quang điềm đạm bên cạnh. Minh lái xe thứ hai, phía sau là họ hàng nhà trai, ai cũng áo dài đỏ, mặt mũi hồ hởi.

    Trời cuối đông, sương rơi mỏng trên mặt đê. Qua khỏi cây cầu nhỏ, gió sông thổi phả lạnh râm ran. Bà Hường kéo cửa kính lên, làu bàu:
    – Đường gì lổn nhổn đá. Cưới ở quê khổ.

    Đoàn xe dừng đầu ngõ Làng Đông. Con ngõ rải bê tông, hai bên là hàng cau thẳng, mùi hoa bưởi thoang thoảng. Mấy đứa trẻ chạy theo xe nhìn người lạ, cười khanh khách. Bà Hường cau mày:
    – Dừng đây. Để xem nhà cửa thế nào.

    Bà định nói thêm câu “kẻo vào lát lại giày bẩn bùn” – thì đứng chết lặng.

    Ngay đầu kia của ngõ, vượt qua luỹ tre, một căn biệt thự hai tầng mái dốc hiện ra, sơn trắng vân đá, bao quanh là vườn hồng ngoại xén tỉa gọn gàng, hiên gỗ lim, khung cửa kính lớn mở ra một phòng khách sang trọng. Trên cổng là biển gỗ khắc chữ “Nhà Vũ Thảo – Vũ Lâm”. Chữ thép “1936 – 2021” nhỏ phía dưới.

    Bà Hường ngoảnh nhìn chị giúp việc, tưởng mình hoa mắt.
    – Đây… đây là đâu?
    Chị giúp việc lắp bắp:
    – Dạ… nhà gái… nhà cô Thảo…

    Cả đoàn nhà trai lặng đi. Mấy bà cô rì rầm: “Ôi giời ơi, tưởng nghèo… to nhất làng đây rồi.” Ông Quang quay sang vợ, khóe miệng nhếch nhẹ: “Bình tĩnh.” Minh nhìn qua kính xe, thấy Thảo vừa bước ra cổng, áo dài trắng thêu hoa sen, tóc vấn đơn giản. Em mỉm cười, cúi đầu chào đoàn.

    Bên trái căn biệt thự, sát hàng cau, một căn nhà cấp bốn cũ kĩ hiện lên – đúng cái Minh từng thấy: mái ngói rêu, bờ tường nứt. Trước hiên, chiếc xe cút kít cũ dựng nghiêng, bên trong đặt cái cối xay lúa cổ. Trên đòn tay treo chiếc đèn dầu đen khói.

    Bà Hường nuốt nước bọt. Bà cảm thấy bàn tay mình – bàn tay từng chọn những trái nho nhũn ở Long Biên – bỗng lạnh toát.

    Từ trong sân, ông Lâm – bố Thảo – ra đón, dáng người thư thái, áo dài the đen, giày da mềm, mắt hiền. Cạnh ông là bà Vũ – mẹ Thảo – mặc áo dài gấm xanh nhạt, cổ cài trâm bạc. Ông cúi mình:
    – Dạ, mời quan viên nhà trai vào dùng trà.

    Bà Hường chợt nhớ đến những mâm tráp của mình. Mồ hôi rịn mặt. Bà quay phắt sang cậu trưởng bưng tráp:
    – Đợi! Đợi đã!

    Nhưng đã muộn. Cả làng xúm lại xem, tiếng xì xào nổi lên khi lớp giấy điều đỏ được gỡ, lộ những trái xoài lấm chấm, táo bóng mỡ mà cứng như sáp, chùm nho héo. Mấy cô gái bưng tráp nhà gái nhìn nhau, rồi đưa mắt sang Thảo. Thảo chỉ khẽ gật đầu. Cô bước tới, cúi chào, đỡ mâm tráp bằng hai tay, giọng nhẹ:
    – Dạ, xin nhận lòng thành nhà trai ạ.

    Lòng thành. Hai chữ ấy rơi xuống như mũi kim, đau lạnh nơi gáy bà Hường. Bà cảm thấy tiếng cười khẽ của vài người đàn bà trong xóm như mũi dao lách vào lòng tự ái của mình.

    3. Căn nhà kỷ niệm

    Sau màn chào hỏi, mọi người vào phòng khách. Căn phòng sàn gỗ bóng loáng, tường treo tranh mực tàu, một tủ sách lớn cao đến trần. Trên bàn trà là bộ ấm chén gốm men lam, bốc khói thơm mùi sen.
    Ông Lâm mời trà.
    – Dạ, nhà quê thô mộc, mong nhà trai coi như nhà mình.

    Bà Hường cười gượng. Bà đỡ tách trà, tay run. Ông Lâm hỏi thăm chuyện làm ăn, chuyện cưới. Ông Quang đáp lễ chuẩn mực. Còn bà, cứ nhìn ra cửa sổ – nơi căn nhà cấp bốn đứng lặng. Ánh nắng sớm xuyên qua giàn hoa giấy cũ, lung linh bụi.

    Không chịu nổi, bà hỏi:
    – Ông bà… căn nhà kia… còn để làm gì vậy?

    Bà Vũ mỉm cười:
    – Nhà kỷ niệm đấy ạ. Nhà này chúng tôi mới xây ba năm trước, sau khi con gái đi làm có tiền. Còn căn kia là nhà cụ nội – xây từ năm ba sáu. Chồng tôi bảo, “đập đi thì phí cái tuổi thơ.” Nên thôi, để đấy, mùa hè mùi rơm còn đọng.

    Bà Hường cảm thấy như ai đó bóp tim mình. Bà nhìn mâm tráp hoa quả đặt trên bàn góc – loại quả mà bà vừa nâng niu xoay mặt đẹp lên. Trong căn nhà này, mâm tráp ấy giống như đứa trẻ quê lỡ tay bước vào phòng triển lãm. Bà chợt nghe tiếng trưởng họ nhà gái hắng giọng:
    – Tráp nhà trai chuẩn bị chu đáo quá. Tụi trẻ chụp ảnh đi.

    Chu đáo. Bà biết họ đang giữ mặt mũi cho nhau. Minh nhìn mẹ, ánh mắt lộ vẻ lo. Bà Hường quay đi.

    Lúc trao trầu cau, trời bất chợt chuyển mưa. Mưa mỏng như tơ, hạt rơi kẽo kẹt trên mái hiên gỗ. Thảo dắt mẹ chồng tương lai ra sau nhà tránh mưa. Ở đó, bà Hường nhìn gần căn nhà kỷ niệm – tường loang, cửa gỗ mòn tay nắm, trên bậc thềm có khắc mấy nét bút chì, hình cây dừa và chữ “Thảo – 7 tuổi” nguệch ngoạc.

    Bà Vũ bảo:
    – Hồi nhỏ, nó với anh trai vẫn ngủ ở đây. Tối hè, hai đứa đếm sao qua lỗ thủng mái ngói. Hôm nhà mới xây xong, nó ôm cột nhà cũ, bảo “đừng đập, để con còn nghe mùi mùa hè”.

    Bà Hường thở ra. Gió mưa táp vào má mằn mặn. Bà lần đầu thấy những đường nhăn trên khuôn mặt bà Vũ dễ thương đến thế, như vân gỗ cũ. Bà nghe tiếng mình nói, nhỏ đi:
    – Tôi… tôi hiểu rồi.

    4. Cơn đỏ mặt

    Bữa tiệc bắt đầu. Đầu bếp trong làng bày những mẹt nem tai, gà hấp lá chanh, xôi vò, cá sông nướng rơm. Ông Lâm mở một chai vang đỏ, rót mời bên nội.
    – Rượu này con Thảo mang từ Đà Lạt về. Nó bảo bố uống cho ấm.

    Tiếng cười nói xôn xao. Bà Hường ăn như nhai lửa. Bà nhìn Thảo – cô gái áo dài trắng nhẹ như đám mây – đang ghé tai bà Vũ thì thầm điều gì rồi cười. Bỗng Thảo quay sang bà Hường:
    – Bác ơi, sau bữa, bác qua căn nhà nhỏ kia với con nhé. Con muốn bác xem một thứ.

    Bà gật. Tim đập, không hiểu vì ngại hay vì mong manh nào đó.

    Sau bữa, Thảo đưa bà Hường đến căn nhà cũ. Căn nhà mát râm; mùi vôi tường hôi hôi thoang thoảng mùi nhang trầm. Trên tủ gỗ nhỏ có đặt một khung ảnh đen trắng: một người đàn ông mặc bộ đồ công nhân xây dựng đang đứng trên nóc một căn nhà dang dở, cười rạng rỡ.
    – Ông ngoại con. – Thảo nói. – Ông làm thợ cả cả đời, mơ xây cho con cháu một căn nhà gạch tử tế. Mấy năm trước, con có tiền, mẹ bảo “xây đi cho ông vui.” Xây xong, ông mất. Mẹ nói, giữ lại nhà cũ để nhớ ông.

    Bà Hường nhìn bức ảnh, bỗng nhớ chồng – ông Quang – từng là kỹ sư cầu đường một thời, cũng đi công trường rạc người. Bà nhớ thời trẻ vợ chồng sống trong căn phòng trọ 12 mét vuông mùi ẩm mốc, bữa cơm chỉ có cà dầm tương. Hồi ấy, ai hỏi, bà vẫn cười: “Đời mà.”

    Có tiếng gọi ngoài sân:
    – Mẹ ơi! – Minh.
    Bà Hường quay lại. Thảo nhìn Minh, mắt dịu hẳn. Khoảnh khắc ấy, bà thấy đôi trẻ hợp nhau đến lạ.

    Trong lúc chờ làm nghi thức xin dâu, bà Vũ bỗng đưa tay đỡ mâm tráp hoa quả mà nhà trai mang tới, cẩn thận nhặt từng quả héo, bỏ riêng vào cái làn mây nhỏ. Bà nói thản nhiên như chuyện thường ngày:
    – Mấy quả này chắc họ bán sớm, bị dập. Để tôi bảo con bé đầu bếp làm mứt, đỡ phí.

    Bà Hường nghe, đỏ mặt. Cơn đỏ không vì bị bóc mẽ – nhà gái tuyệt không mỉa mai – mà vì bà nhìn rõ chính mình: sự khinh mạn lười nghĩ, cái keo kiệt ẩn dưới danh nghĩa “giản dị, tiết kiệm”.

    Bà đến bên bà Vũ, vội nói:
    – Chị để em… em mang ra xe đổi mâm khác.
    – Thôi, bận rộn rồi. – Bà Vũ cười hiền. – Cưới hỏi đâu phải vì mâm quả. Nhà tôi quý cái lòng của các cụ. Các cháu thương nhau là được.

    Bà Hường nhìn người đàn bà kia, ngực thắt lại. Bà thốt:
    – Chị ạ, thành thật xin lỗi.

    Bà Vũ khựng một nhịp, rồi gật, tay vỗ khẽ lên tay bà Hường:
    – Ối dào, cưới xin, ai chẳng có lúc sơ suất. Mình cười với nhau cho nhẹ.

    5. Một việc làm muộn màng

    Xe rước dâu chuẩn bị lăn bánh. Trước khi lên xe, bà Hường rời đoàn, lẳng lặng gọi điện cho cửa hàng tráp cưới lớn ở thị trấn:
    – Chị ơi, làm gấp cho tôi một bộ tráp hoa quả loại đẹp nhất, bánh kẹo nhập, trà ô long ngon, rượu vang – giao đến cổng làng Đông trong một tiếng. Đúng, tôi trả tiền ngay, thêm phí gấp đôi.

    Bà quay lại, nói nhỏ với ông Quang:
    – Lúc lên đến nhà mình, mình thay tráp.
    Ông Quang nhướng mày:
    – Ừ.

    Minh thấy mẹ bận rộn, ngạc nhiên. Bà không giải thích. Bà bước đến chỗ Thảo, cầm tay con dâu:
    – Con gái, mẹ… xin lỗi con.
    Thảo hơi bất ngờ, rồi mỉm cười:
    – Mẹ đừng nói thế. Con về làm dâu mẹ, mọi chuyện từ từ rồi hiểu nhau.

    Đoàn rước dâu rời làng trong tiếng pháo điện lách tách. Qua cửa kính, bà Hường ngoảnh lại: căn biệt thự trắng lùi dần, còn căn nhà cũ bé xíu ở cạnh vẫn đứng đó, như một dấu chấm câu dịu dàng ở cuối câu chuyện dài.

    Khi về đến nhà trai, bộ tráp mới mười phần lộng lẫy đã chờ trước cửa: nho ruby căng mọng, dứa tỉa chim phượng, cặp táo Nhật đỏ ửng, rượu vang nắp bọc thiếc; bánh kẹo Ferrero, Haribo, trà ô long cao cấp. Bà Hường tự tay đặt vào bàn thờ gia tiên, thắp nhang, khấn khẽ:
    – Con sai thì con sửa. Tổ tiên chứng cho lòng con.

    Họ hàng trầm trồ. Minh nhìn mẹ, hiểu. Cậu nắm tay Thảo chặt hơn.

    6. Lời xin cưới thứ hai

    Tiệc cưới tại nhà trai xong, buổi chiều, bà Hường xin phép hai họ cho mình nói vài lời. Bà đứng trước sân, micro run trong tay:
    – Hôm nay, thay mặt bên nhà trai, tôi… tôi muốn cảm ơn nhà gái đã tiếp đón rất tử tế. Và tôi xin nhận một cái lỗi.

    Sân im lặng. Ông Quang nhìn vợ, mắt ấm. Bà Hường nói rõ từng chữ:
    – Tôi đã tưởng… nhà gái nghèo, nên mua tráp qua loa. Tôi sai. Nghèo hay giàu không ở căn nhà cũ hay mới, không ở cái mâm cỗ hay trái nho. Nó ở… cách người ta giữ ký ức của mình. Nhà gái giữ một căn nhà cũ để không quên gốc, còn tôi thì quên mất điều đó. Tôi xin lỗi.

    Một tràng vỗ tay dậy lên. Thảo rưng rưng. Bà Vũ đứng giữa đám đông, nhìn bà Hường mà cười, cái cười hiền khiến người khác muốn khóc.

    Đến tối, bà Hường ghé phòng Thảo. Con dâu đang gấp gọn áo dài. Bà đặt lên giường một hộp gỗ.
    – Quà mẹ cho con gái.
    Thảo mở ra: bên trong là chuỗi ngọc trai của bà.
    – Mẹ…
    – Mẹ giữ đã lâu. Hôm nay mẹ biết con dùng được. Đồ đắt chỉ đẹp khi người đeo nó… không kiêu. – Bà mím môi, như tự trào chính mình. – Con đừng giận mẹ nhé.

    Thảo ôm bà:
    – Mẹ ơi, con chỉ mong nhà mình đừng hiểu lầm nhau nữa. Con lớn lên ở giữa hai căn nhà – một mới, một cũ – nên con biết: cái mới cho tương lai, cái cũ là trái tim.

    Bà Hường khẽ gật, mắt cay. Bà tự hỏi: bấy lâu, bà chạy theo “thể diện”, “giản dị”, “hợp lý”… mà quên mất cái “trái tim” đó nằm ở đâu.

    7. Ngày trở lại làng Đông

    Một tuần sau, bà Hường gọi lái xe đưa mình về Làng Đông. Không báo trước. Không chủ đích lễ lạt. Bà mang theo một giỏ hoa quả đẹp nhất tự tay chọn từ cửa hàng tử tế, thêm một chiếc giỏ khác đựng bánh trung thu thương hiệu tốt – dù tháng Chín còn xa.

    Cổng biệt thự mở. Bà Vũ đang phơi thảm trước hiên, thấy bà thì mừng rỡ:
    – Ấy chết, chị chơi đường đột thế này. Vào nhà, vào nhà.
    – Tôi xin phép… sang xin lỗi lần nữa. – Bà Hường cười, nụ cười nhẹ. – Và gửi lại… tráp tử tế. Lần trước tôi để con cái nhà chị phải… làm mứt.

    Bà Vũ phì cười:
    – Mứt ngon chứ bộ! – Bà kéo tay bà Hường. – Tôi pha trà sen. À, chị nghe Thảo kể chuyện chị đổi tráp ở nhà nội, tôi xúc động lắm. Người lớn mình, biết sai biết sửa – thế là quý.

    Hai người đàn bà ngồi bên hiên gỗ, ngắm vườn hồng lấp lá. Bà Hường nhìn sang căn nhà cũ. Bà hỏi:
    – Chị giữ nhà này lâu dài chứ?
    – Ừ. Thỉnh thoảng tụi trẻ về nằm quạt nan nghe dế kêu, vui đáo để. Chị vào nằm thử đi, mát rượi.

    Bà Hường bước vào. Trên chiếc bàn gỗ, bức ảnh ông ngoại Thảo cười như đang nhìn họ. Bà chạm tay lên bề mặt gỗ nhẵn, thở ra:
    – Hóa ra giàu… là như thế này.

    Bà quay ra, nói với bà Vũ:
    – Tôi có ý này. Năm nay làm phúc xây lại cái giếng cổ phía sau sân, lát gạch cho chắc. Công ty tôi còn gạch granit loại đẹp. Tôi xin tài trợ.
    – Ấy, ngại chết đi. – Bà Vũ đỏ mặt. – Nhưng nếu chị vui, tôi càng vui. Nhà cũ có giếng mới cũng xinh.

    Họ cười. Gió sông thổi ngang hiên, mang theo mùi rơm và mùi trà.

    8. Kết

    Đám cưới xong, người ta kể mãi chuyện “nhà trai Long Biên” – ban đầu khinh thường vì tưởng nhà gái nghèo, mang tráp hoa quả gần hỏng, cuối cùng đỏ mặt trước căn biệt thự to đẹp nhất làng. Nhưng người ta kể thêm chuyện sau đó: mẹ chồng đã quay lại, tự tay đặt giỏ quả thơm, xin lỗi đàng hoàng; và tài trợ lát lại cái giếng cổ của nhà kỷ niệm.

    Ở thành phố, bà Hường treo trong phòng làm việc một bức ảnh: trước căn nhà cũ bên căn biệt thự trắng, hai người đàn bà – một mặc áo dài gấm xanh, một mặc áo lụa be – đang cười. Bên dưới, bà chú thích bằng bút máy: “Giữ nhà cũ để khỏi lạc lòng.”

    Một tối, Minh hỏi:
    – Mẹ ơi, sao mẹ treo ảnh này ở đây?
    – Để nhớ. – Bà xoa đầu con trai như hồi nó còn bé. – Nhớ rằng con dâu mẹ có hai căn nhà: một căn để ở, một căn để thương. Và mẹ, cũng nên giữ lại cho mình một căn như thế.

    Minh cười, ôm mẹ. Ngoài kia, thành phố lên đèn, tiếng còi xe lẫn với tiếng gió chạy qua những tòa nhà cao. Ở một nơi xa hơn, con đường bê tông dẫn vào Làng Đông vẫn thơm mùi cau; căn nhà cũ bên hiên gỗ lim vẫn lặng lẽ sáng chiếc đèn dầu mỗi khi mất điện.

    Ngày giêng hai, bà Hường lại về làng, bưng mâm ngũ quả đẹp bóng như mặt trăng, đặt lên bàn thờ. Bà khấn, giọng chậm:
    – Con đến xin phép cụ, cho chúng con làm thông gia tử tế. Lần đầu con vụng, lần sau con sẽ khéo hơn.

    Gió ào qua hàng cau, lá chạm vào nhau kêu xào xạc, như tiếng ai đó cười cho qua chuyện cũ. Trên tường, bức ảnh ông ngoại Thảo vẫn cười, còn bà Hường bỗng thấy lòng nhẹ như chưa bao giờ.

    Trong căn nhà mới, Thảo bưng khay trà nóng ra hiên, nhón tay sửa lại chiếc trâm ngọc trai mẹ chồng tặng. Mẹ chồng – bà Hường – nhận tách trà, nhìn con dâu, nói nhỏ:
    – Con gái, cảm ơn con đã cho mẹ một bài học.
    Thảo mím cười:
    – Bài học… có hai căn nhà.

    Bà Hường gật. Ở nhà, ở thương. Ở hiện tại, ở ký ức. Bà chợt hiểu: giàu nghèo rốt cuộc không nằm ở mâm tráp, mà ở cái cách người ta đối đãi với quá khứ của mình.

    Gió lại thổi, mang theo mùi hoa bưởi. Tiếng chim sẻ ríu rít trên mái ngói cũ. Hai người đàn bà ngồi cạnh nhau, giữa hai căn nhà – một rực rỡ, một rêu phong – và trong khoảnh khắc ấy, mọi hiểu lầm đã hóa thành câu chuyện để sau này kể lại cho cháu chắt nghe, bằng một nụ cười.

  • Vô tình xem ca:;m;;era trong nhà, tôi thấy bố cặm cụi nấu ăn còn vợ thì nằm n;;gủ, lúc tua lại tôi sợ t:ái :m:ặt

    Nhìn cảnh ᵭó, tȏi rất bức xúc và muṓn gọi ᵭiện ngay vḕ cho vợ ᵭể cȏ ấy dậy nấu ăn với bṓ chṑng. Khȏng ai có thể chấp nhận cảnh bṓ nấu ăn cho con dȃu ngủ thḗ này ᵭược?

    Vợ chṑng tȏi lấy nhau 6 năm nay, có 2 mặt con và ᵭang sṓng cùng với bṓ mẹ. Tȏi là con trai duy nhất nên bṓ mẹ khȏng muṓn cho ở riêng. Với lại tȏi làm xa nhà ᵭể vợ con sṓng 1 mình khȏng yên tȃm.

    Từ khi bị ngã giáo trong lúc xȃy nhà, sức khỏe của bṓ tȏi giảm sút nghiêm trọng, ȏng khȏng thể làm ᵭược việc nặng. Hằng ngày ȏng ở nhà lo dọn dẹp nhà cửa và cơm nước cho vợ con.

    Khi vợ tȏi sinh 2 con thì ȏng kiêm thêm việc chăm sóc cháu ᵭể vợ chṑng tȏi ᵭi làm kiḗm tiḕn. Bṓ mẹ tȏi là lao ᵭộng tự do, vḕ già khȏng có lương hưu. Vì khȏng muṓn tuổi già phụ thuộc con cái nên mẹ tȏi ᵭi làm giúp việc trên thành phṓ, cả năm vḕ nhà vài lần.

    Thương bṓ làm việc vất vả, tȏi thường nhắc nhở vợ ᵭi làm vḕ sớm phụ việc nhà và chăm sóc con với bṓ, ᵭừng phó mặc mọi việc cho ȏng.

    Vợ tȏi tính tình hiḕn lành, biḗt ᵭṓi nhȃn xử thḗ và ᵭảm ᵭang nên tȏi khá yên tȃm vḕ cȏ ấy.

    Vợ thường kể với chṑng là sau mỗi giờ tan ca, ᵭṑng nghiệp thường rủ ᵭi ăn, mua sắm hay xem phim. Còn vợ tất bật vḕ nhà cơm nước và tắm rửa cho các con.

    Những lúc ᵭó, tȏi chỉ biḗt ᵭộng viên vợ cṓ gắng vài năm nữa, con lớn rṑi hưởng thụ sau. Bṓ sức khỏe yḗu, cả ngày trȏng coi 2 cháu ᵭã là sự cṓ gắng lắm rṑi, chúng tȏi phải ghi nhận và cùng nhau vượt qua.

    1 tháng nay, vợ thường than là hay bị chóng mặt nhức ᵭầu, cơ thể mệt mỏi khȏng thiḗt làm gì nữa. Có hȏm ăn ở cȏng ty còn bị nȏn ra hḗt. Lo sợ vợ bị bệnh gì ᵭó trong người nên tȏi khuyên cȏ ấy ᵭi khám ᵭể biḗt mà chữa trị sớm. Nhưng vợ tiḗc tiḕn và sợ nghỉ việc sẽ bị mất tiḕn chuyên cần nên cȏ ấy trì hoãn hḗt lần này ᵭḗn lần khác.

    Hȏm thứ 3 tuần trước, ᵭi làm vḕ, nhớ vợ con nên tȏi mở camera lên xem thì thấy vợ ᵭang nằm ngủ trên ghḗ sofa ngoài phòng khách, còn bṓ ᵭang cặm cụi nấu ăn, 2 ᵭứa con ᵭang ngṑi xem tivi. Nhìn cảnh ᵭó, tȏi rất bức xúc và muṓn gọi ᵭiện ngay vḕ cho vợ ᵭể cȏ ấy dậy nấu ăn với bṓ chṑng. Khȏng ai có thể chấp nhận cảnh bṓ nấu ăn cho con dȃu ngủ thḗ này ᵭược?

    Khi tȏi ᵭịnh ᵭiện thoại gọi thì trong ᵭầu hiện lên 1 người vợ ᵭảm, chu toàn, khȏng bao giờ có chuyện cȏ ấy làm biḗng. Tȏi bắt ᵭầu tua lại video ᵭể xem ở nhà ᵭã xảy ra chuyện gì.

    Qua cuộc nói chuyện của bṓ với 1 người lạ, tȏi biḗt vợ ᵭi làm vḕ lúc 3h chiḕu. Ngay sau ᵭó, tȏi gọi ᵭiện cho bṓ ᵭể hỏi thăm tình hình ở nhà. Thì ra, vợ tȏi bị ᵭau ᵭầu dữ dội khȏng thể làm việc ᵭược nữa nên nhờ ᵭṑng nghiệp ᵭưa vḕ và vợ ngủ 1 mạch ᵭḗn chiḕu tṓi. Thương con dȃu bị bệnh nên bṓ làm mọi việc và nhắc nhở các cháu yên lặng, khȏng quậy phá ᵭể mẹ ngủ ngon cho bệnh nhanh khỏi.

    Vì muṓn vợ nghỉ ngơi cho khỏe nên tȏi khȏng dám gọi ᵭiện làm phiḕn. Đḗn khi vợ tỉnh táo và cơm nước xong thì tȏi mới gọi ᵭiện hỏi thăm sức khỏe. Có lẽ sợ chṑng hṓi thúc ᵭi bệnh viện nên vợ nói chỉ bị cảm qua loa, khȏng có vấn ᵭḕ gì và nhắc nhở tȏi yên tȃm làm việc.

    Khȏng yên tȃm vḕ sức khỏe vợ, cả ᵭêm tȏi khȏng thể chợp mắt, ngay sáng hȏm sau tȏi xin nghỉ làm vài hȏm ᵭể vḕ ᵭưa cȏ ấy ᵭi bệnh viện khám. Trước sự thuyḗt phục của chṑng và bṓ, cuṓi cùng vợ cũng ᵭṑng ý ᵭi bệnh viện.

    Lúc nhận kḗt quả, tȏi bàng hoàng khi biḗt vợ có 1 khṓi u ác trong não. Vợ chṑng tȏi chỉ biḗt ȏm nhau mà khóc. Điḕu kiện kinh tḗ còn nhiḕu khó khăn, lương tȏi mỗi tháng 12 triệu, bȃy giờ vợ bị bệnh khȏng thể ᵭi làm ᵭược nữa. Bệnh của vợ cần nhiḕu tiḕn ᵭể ᵭiḕu trị, sắp tới chúng tȏi lấy ᵭȃu tiḕn ᵭể chữa ᵭȃy?

  • Chú chó mực sủa đ;i;ên cu;ồng trước giờ hạ huyệt, tiếng động lạ làm cả làng k;i;nh h;ã;i và sự thật khi mở nắp quan tài

    Làng Cây Đa, một xóm nhỏ nép bên con sông Đáy, hôm ấy chìm trong không khí tang lễ nặng nề. Cụ bà, mẹ ông Ba, vừa qua đời ở tuổi 87. Cả làng kéo đến nhà ông Ba, tiếng kèn trống não nề vang vọng từ đầu thôn đến cuối xóm. Quan tài gỗ mít sơn son, đặt giữa sân nhà, phủ khăn trắng, bên trên là bát cơm cúng và nén hương nghi ngút.

    Con chó mực tên Vàng, bạn thân của cụ bà khi còn sống, nằm co ro dưới hiên nhà. Nó không ăn, không sủa, chỉ nhìn quan tài với đôi mắt buồn thiu. Ông Ba, người con trai cả, áo trắng, khăn tang chít đầu, đứng cạnh quan tài, đôi mắt đỏ hoe nhưng cố giữ vẻ cứng cỏi.

    Sáng sớm ngày hạ huyệt, khi sương còn giăng mờ trên đồng lúa, đoàn người đưa tang lặng lẽ rời làng. Con đường đất đỏ ngoằn ngoèo dẫn ra nghĩa trang, hai bên là ruộng lúa xanh mướt. Tiếng mõ của thầy cúng đều đều, hòa với tiếng gió rít qua lũy tre. Vàng lặng lẽ đi sau, bước chân chậm rãi, như muốn tiễn cụ bà lần cuối.

    Tại nghĩa trang, huyệt mộ mới đào nằm dưới bóng cây bàng già. Quan tài được đặt xuống đất, chuẩn bị hạ huyệt. Thầy cúng bắt đầu tụng kinh, giọng trầm trầm vang lên giữa không gian tĩnh lặng. Đột nhiên, Vàng – con chó mực – bất ngờ lao tới, chạy vòng quanh quan tài. Nó sủa điên cuồng, tiếng sủa sắc lạnh, như xé toạc không khí tang lễ.

    “Cái gì thế này?!” – bà Tư, hàng xóm nhà ông Ba, hét lên, lùi lại vài bước.

    “Vàng! Mày làm gì đấy? Im đi!” – ông Ba quát, mặt tái mét, cố kéo con chó ra. Nhưng Vàng không nghe, nó gầm gừ, nhe răng, mắt long sòng sọc nhìn quan tài.

    “Chó sủa ở nghĩa trang… không lành đâu, anh Ba ơi!” – ông trưởng thôn thì thào, giọng run run. Đám đông bắt đầu xì xào, vài người già lẩm bẩm cầu khấn. Một đứa trẻ sợ quá, òa khóc, khiến không khí càng thêm căng thẳng.

    Đúng lúc ấy, một âm thanh kỳ lạ vang lên từ trong quan tài. “Cộc… cộc… cộc…” – như tiếng gõ gỗ, dồn dập, kèm theo một tiếng rên yếu ớt. Cả đám tang chết lặng. Bà Tư hét lên: “Trời ơi, ma nhập tràng! Ma nhập tràng rồi!”

    “Im ngay!” – ông Ba gầm lên, nhưng chính ông cũng run lẩy bẩy. Tiếng gõ lại vang lên, lần này rõ hơn, như ai đó đang cào vào gỗ. “Mẹ… mẹ tôi còn sống sao?!” – ông Ba lắp bắp, quay sang thầy cúng – “Thầy, làm sao đây? Có thật là mẹ tôi chưa chết không?”

    Thầy cúng, mặt cắt không còn giọt máu, lắc đầu: “Tôi… tôi chưa thấy trường hợp này bao giờ! Nhưng… nhưng phải mở quan tài, anh Ba! Nếu cụ còn sống, không mở là chết ngạt!”

    “Không được!” – bà con làng xóm phản đối. Một người hét lên: “Mở quan tài là phạm húy! Nhỡ là hồn ma thì sao? Cả làng sẽ bị nguyền đấy!”

    “Im hết đi!” – ông Ba gào, nước mắt chảy dài. “Nếu mẹ tôi còn sống, tôi không thể chôn bà! Ai dám giúp tôi, mở quan tài ngay!”

    Vàng vẫn sủa, nhưng giờ nó đứng yên, mắt chằm chằm vào quan tài, như thúc giục. Ông trưởng thôn, dù sợ, vẫn bước lên: “Thôi được, anh Ba. Tôi giúp. Mấy thằng trai trẻ đâu, mang xà beng ra đây!”

    Bốn thanh niên trong làng, mặt mày tái nhợt, run run cầm xà beng cạy nắp quan tài. Tiếng gỗ kêu răng rắc giữa nghĩa trang khiến ai cũng rùng mình. Đám đông nín thở, vài người nhắm mắt, cầu trời khấn phật. Vàng ngừng sủa, nhưng đuôi nó khẽ vẫy, như biết điều gì sắp xảy ra.

    Khi nắp quan tài bật mở, một cảnh tượng khiến tất cả kinh hoàng. Cụ bà nằm đó, mắt nhắm nghiền, nhưng tay cụ đang nắm chặt một con rắn hổ mang to, cổ rắn bị bóp nát, máu chảy lênh láng. Bên trong quan tài, một con rắn khác, cũng là hổ mang, đang quằn quại, cố bò ra ngoài. Tiếng cộc cộc hóa ra là do con rắn cào vào gỗ, còn tiếng rên là âm thanh phát ra khi cụ bà, dù đã mất, co giật vì nọc độc.

    “Trời đất ơi!” – ông trưởng thôn thốt lên, lùi lại. “Rắn độc! Sao chúng chui vào quan tài được?!”

    Ông Ba quỵ xuống, ôm mặt khóc: “Mẹ ơi… mẹ đã cứu cả nhà! Nếu không mở ra, ai biết được rắn độc sẽ làm gì!” Ông quay sang Vàng, ôm chặt con chó: “Mày biết, phải không Vàng? Mày cứu mẹ tao, cứu cả làng!”

    Hóa ra, khi khâm liệm, không ai để ý một ổ rắn hổ mang đã chui vào quan tài, có lẽ từ khe hở dưới nhà sàn. Vàng, với linh tính của mình, đã phát hiện ra nguy hiểm, sủa điên cuồng để cảnh báo. Nếu không có nó, quan tài đã được chôn, và cả làng có thể gặp tai họa nếu rắn thoát ra sau này.

    Đám tang tiếp tục, nhưng không còn ai sợ hãi. Thay vào đó, họ thì thầm về Vàng – con chó mực trung thành, đã làm nên điều kỳ diệu trong giờ hạ huyệt. Từ đó, mỗi khi đi qua nhà ông Ba, người làng không quên nhìn Vàng với ánh mắt kính nể. Con chó nhỏ bé ấy đã trở thành huyền thoại của làng Cây Đa.