Tôi và Liên kết hôn năm 2009. 16 năm chung sống, chúng tôi là hình mẫu gia đình hạnh phúc trong mắt bạn bè. Tôi có sự nghiệp vững vàng, Liên là người vợ đảm đang, khéo léo. Tài sản lớn nhất của chúng tôi là hai đứa con: thằng Tuấn sinh năm 2010 và bé Lan sinh năm 2013.
Tuấn năm nay đã 15 tuổi, đang tuổi dậy thì, cao lớn phổng phao nhưng tính tình trầm lặng. Bé Lan 12 tuổi thì lí lắc, đáng yêu. Tôi yêu thương chúng hơn cả sinh mạng mình. Những đêm Tuấn sốt cao tôi thức trắng chườm khăn, những buổi chiều đón Lan đi học về, nghe con kể chuyện trường lớp là khoảnh khắc bình yên nhất cuộc đời tôi.
Nhưng có một gợn sóng ngầm mà tôi luôn cố lờ đi suốt bao năm qua. Càng lớn, hai đứa trẻ càng không có nét nào giống tôi. Tôi mắt một mí, Tuấn và Lan đều mắt hai mí to tròn. Tôi da ngăm, hai đứa trắng bóc. Tóc tôi xoăn tự nhiên, tóc các con thẳng tắp. Họ hàng lời ra tiếng vào: “Sao con nhà Hùng chẳng giống bố tí nào nhỉ? Hay là giống ông hàng xóm?” Tôi thường gạt đi, cười xòa: “Con giống mẹ là có phúc.” Tôi tin tưởng Liên tuyệt đối.
Mọi chuyện bắt đầu từ đợt kiểm tra sức khỏe tổng quát để làm hồ sơ du học cho thằng Tuấn. Nhóm máu của Tuấn không khớp với quy luật di truyền của tôi và Liên. Bác sĩ nhìn tôi ái ngại, khuyên tôi nên kiểm tra kỹ hơn.
Cầm trên tay kết quả ADN, trời đất như quay cuồng sụp đổ. “Không cùng huyết thống.” Không chỉ Tuấn, mà cả bé Lan. Cả hai đứa con tôi nâng niu, chăm bẵm suốt hơn một thập kỷ qua, đều không phải con ruột của tôi. Tôi lái xe ra bờ biển, ngồi gào khóc như một đứa trẻ suốt 3 tiếng đồng hồ. 16 năm cuộc đời tôi là một vở kịch dối trá sao? Người vợ đầu gối tay ấp của tôi là ai?
Tôi trở về nhà khi trời đã tối mịt. Tôi ném tờ kết quả xuống bàn. Liên nhìn thấy, mặt cắt không còn giọt máu, quỳ sụp xuống chân tôi khóc nức nở. Hóa ra, trước khi cưới tôi, Liên đã có một mối tình sâu đậm với người yêu cũ nhưng bị gia đình ngăn cấm. Trong những lúc chúng tôi cãi vã hay tôi đi công tác xa, cô ấy đã yếu lòng… Cả hai lần lầm lỡ đều trúng vào những thời điểm nhạy cảm, và cô ấy đã chọn cách im lặng để “bảo vệ hạnh phúc gia đình”.
Nhưng điều khiến tôi đau đớn hơn cả là khi tôi tìm đến bố vợ – ông Vĩnh – người mà tôi kính trọng như bố đẻ, để tìm một lời khuyên. Ông Vĩnh không ngạc nhiên. Ông cúi đầu, giọng run rẩy: “Bố biết… Bố biết từ khi thằng Tuấn mới 3 tuổi. Con Liên nó thú nhận với bố. Bố đã bắt nó phải giấu kín chuyện này đến chết. Bố xin lỗi con… Bố ích kỷ, bố sợ con bỏ nó, sợ các cháu không có bố…”
Tôi chết lặng. Hai người tôi tin tưởng nhất đã hùa nhau lừa dối tôi suốt chục năm trời. Họ biến tôi thành gã khờ vĩ đại nhất thế gian, nuôi con tu hú mà vẫn vỗ ngực tự hào.
Tôi dọn ra khách sạn ở 1 tuần. Trong 1 tuần đó, tôi không nghe điện thoại của Liên, nhưng tôi vẫn lén đến cổng trường nhìn Tuấn và Lan từ xa. Thằng Tuấn nhắn tin cho tôi: “Bố ơi, bố đi công tác bao giờ về? Cái xe đạp của con bị tuột xích rồi, mẹ không biết sửa.” Bé Lan thì gọi điện thoại bàn ở nhà bà ngoại (tôi không nghe máy) để lại lời nhắn: “Bố ơi, bố về đi, con nhớ bố lắm. Bố hứa cuối tuần đưa con đi mua sách mà.”
Nghe tiếng con, tim tôi thắt lại, đau đớn như ai xát muối. Chúng không có tội. Chúng vẫn là những đứa trẻ ngây thơ tin rằng tôi là bố ruột, là bầu trời của chúng. Ngày thứ 8, tôi trở về nhà. Tôi gọi Liên và bố vợ đến. Không khí căng thẳng như dây đàn sắp đứt. Liên mắt sưng húp, bố vợ thì già đi cả chục tuổi, không dám nhìn thẳng vào tôi. Họ chờ đợi một tờ đơn ly hôn, một màn đuổi ra khỏi nhà, hay một trận lôi đình.
Tôi đặt lên bàn một chiếc bật lửa và tờ kết quả ADN. Trước sự ngỡ ngàng của mọi người, tôi châm lửa đốt tờ giấy xét nghiệm. Ngọn lửa bùng lên, thiêu rụi những dòng chữ tàn nhẫn “Không cùng huyết thống”. “Hùng… con làm gì vậy?” – Ông Vĩnh lắp bắp.
Tôi nhìn thẳng vào mắt vợ và bố vợ, giọng khản đặc nhưng kiên định: “Chuyện này, sống để bụng, chết mang theo. Từ giờ phút này, không ai được phép nhắc lại, và tuyệt đối không bao giờ được để Tuấn và Lan biết.”. Liên òa khóc: “Anh Hùng… Anh tha thứ cho em sao?”
Tôi lắc đầu, ánh mắt lạnh lẽo chiếu vào cô ấy: “Tôi không tha thứ cho cô. Niềm tin của tôi dành cho cô đã chết rồi. Tôi làm việc này không phải vì cô, cũng không phải vì bố. Tôi làm vì thằng Tuấn, cái Lan“. Tôi nuốt nước mắt vào trong, tiếp tục: “Thằng Tuấn đang tuổi dậy thì, tâm lý nó rất nhạy cảm. Cái Lan thì quá nhỏ. Nếu bây giờ chúng biết bố chúng không phải là bố thật, mẹ chúng là người lăng loàn, thì cuộc đời chúng sẽ hỏng mất. Chúng sẽ sống trong mặc cảm, hận thù và sự dè bỉu của xã hội. Tôi đã làm bố chúng 15 năm. Công sinh không bằng công dưỡng. Trong tim tôi, chúng vẫn là con tôi. Tôi không thể vì sự ích kỷ và nỗi đau của bản thân mà phá nát tương lai của hai đứa trẻ vô tội.“
Tôi quay sang nhìn Liên: “Chúng ta sẽ không ly hôn, ít nhất là cho đến khi cái Lan đủ 18 tuổi và vào đại học. Tôi sẽ vẫn đóng vai người chồng, người cha mẫu mực trước mặt các con. Nhưng sau cánh cửa phòng ngủ, chúng ta là người dưng. Cô hãy sống sao cho xứng đáng với sự hy sinh của tôi dành cho các con cô.” Nói xong, tôi đứng dậy đi ra sân sửa xe đạp cho Tuấn. Bóng lưng tôi đổ dài cô độc dưới ánh chiều tà.
Tôi chấp nhận nuốt nỗi nhục của một người đàn ông, chấp nhận mang danh “người chồng bị cắm sừng” trong bóng tối, chỉ để giữ lại nụ cười trọn vẹn và tuổi thơ bình yên cho hai đứa trẻ đã gọi tôi là “Bố” suốt một đời người. Bởi vì, huyết thống là định mệnh, nhưng tình phụ tử là sự lựa chọn. Và tôi chọn làm Bố của các con tôi, dù trái tim tôi có rỉ máu đến tận cùng.
Câu chuyện khép lại với sự im lặng đầy ám ảnh. Không có màn trả thù hả hê, chỉ có sự hy sinh thầm lặng và vĩ đại của người cha. Anh ấy giữ lại gia đình không phải vì còn yêu vợ, mà vì tình thương bao la dành cho những đứa trẻ không cùng máu mủ. Đó là một bản án lương tâm dành cho người vợ, và là một tượng đài về tình người.
Để lại một bình luận